Đây là tượng Thoại Ngọc Hầu tại khu di tích hồ Ông Thoại ở núi Sập (huyện Thoại Sơn)... mà mình vừa chụp lại ở chuyến đi vừa rồi ...
DSC_0193 by
Nguyễn Việt Đoàn 1, trên Flickr
Việc di dân lập ấp ở An Giang có công đóng góp rất lớn của Thoại Ngọc Hầu, bắt đầu từ năm Đinh Sửu 1817. Lúc bấy giờ, nhiều nhà cửa của nông dân đã được dựng lên, các đình chùa cũng bắt đầu được xây cất.
Năm 1818, được lệnh Triều đình, Nguyễn Văn Thoại đốc suất đào kênh Đông Xuyên ra đến Rạch Giá, tạo điều kiện canh tác thuận lợi cho dân khẩn hoang 2 bên bờ con kênh.
Năm 1821, khi Thoại Ngọc Hầu đến thủ đồn Châu Đốc, ông tiếp tục cho di dần lập ấp, xây dựng nhiều làng người Việt ở đây. Những nơi cỏ cây rậm rạp, đều được ông khuyến khích dân khai phá. Trong bia Vĩnh Tế Sơn còn ghi "Lão thần Thoại Ngọc Hầu...muốn nơi đồng hoang bát ngát này trở thành làng mạc trù phú, yên vui, dân cư đông đúc, xùm vầy".
Đào kênh Vĩnh Tế xong, Nguyễn Văn Thoại cho đắp con đường từ Châu Đốc đến núi Sam mà trước kia phải đi bộ hoặc đi đò chèo. Từ đó, ngựa xe qua lại dễ dàng, đường cao khoảng 3 mét để ngừa nước lụt, cho dựng bia " Châu Đốc tân lộ kiều lương" (1828). Dân cư nhờ đó mà từ Châu Đốc vào Núi Sam khẩn ruộng, lần hồi tiến vô khai phá đến vùng Tịnh Biên .
Lúc bấy giờ, trên cánh đồng An Giang rộng lớn và hoang vu, hàng năm đều ngập trong nước lũ nhiều tháng trời, mạng lưới sông rạch tự nhiên rất nhiều. Đường bộ hầu như chưa có, đường thuỷ là tuyến giao thông gần như duy nhất trừ vùng Bày Núi. Cho nên dân cư sinh sống dọc theo các con kênh và bờ sông là điều tự nhiên. Đây là các tuyến chủ yếu tiếp nhận di dân. Lúc đầu, chỉ mới hình thành những tuyến mỏng, dọc ven theo kênh rạch. Khi dân cư đông hơn, họ ở có dạng quây quần chớ không còn đơn thuần theo tuyến dọc nữa. Trong bước đầu đến khai hoang vùng đất An Giang, sự phân bố dân cư nơi đây đã diễn ra một cách tự phát theo lối đất lành chim đậu, nơi nào dễ làm ăn thì dân cư sẽ qui tụ lại ở thành xóm làng. Ngoài ra, một số người có trình độ và có tiền của đứng ra chiêu dân lập làng để khai phá thêm các vùng đất mới còn hoang vu. Các vùng mới khai phá, dân cư quần tụ lại cất nhà kề nhau quay mặt ra sông, sau nhà là vườn, sau vườn là ruộng đồng bát ngát, xa nữa là đồng cỏ và rừng cây hoang vu, có nghĩa là ai có sức lao động và có vốn, thì có thể vỡ hoang đến đâu cũng được và không phải tranh giành với ai. Những nơi giáp nước hoặc ngã ba, ngã tư sông, dân cư thường tập trung ở đông đúc, dần dần hình thành nên quán xá, hiệu buôn, chợ búa để trao đổi mua bán, trên bến dưới thuyền.
Đầu thế kỷ 19, đã nhiều lần quân Xiêm xâm lấn nước ta. Hà Tiên, Châu Đốc là những vùng bị thiệt hại trước tiên và nặng nhất. Năm 1833, giặc Xiêm xâm lăng, tàn phá dọc kênh Vĩnh Tế, chiếm Châu Đốc và tràn luôn qua cả Tân Châu. Nhưng chỉ 5 năm sau (1838), dân cư đã quy tụ trở lại, thành lập hàng chục thôn rải rác từ núi Sam dọc theo 2 bờ kênh Vĩnh Tế qua phía Hà Tiên .
Vùng Châu Đốc là biên cương hiểm trở, vừa sản xuất vừa phải đối phó với ngoại xâm. Mỗi người dân khẩn hoang quả là một lính thú vô danh nơi biên cương xa xôi này.
Thời Gia Long, Minh Mạng, dân cư vùng An Giang còn ít, nhiều đất hoang chưa có người khai thác. Dân xã, thôn ghi vào bộ đinh là đàn ông, không ghi đàn bà, trẻ con. Để thành lập một xã chỉ cần vài người dân đinh đứng đơn, bảo đảm với triều đình về nghĩa vụ thuế đinh, thuế điền. Người xin lập làng được quan phủ cấp cho con dấu nhỏ, bằng gỗ ( dân quen gọi là con mộc). Những người đi khai phá đến sau, phần lớn là dân nghèo, dân lậu, xin khai khẩn vùng đất gọi là " hoang nhân chi địa" (đất chưa khai phá).
Dưới đời Minh Mạng, tội phạm lưu đày phần lớn gom về vùng Vĩnh Tế để lập các xóm dọc bờ kênh, dần dần hình thành nên các vùng dân cư. Nguyễn Tri Phương khi làm kinh lược sứ ở miền Nam, đã có sáng kiến lập đồn điền biên giới nhằm ngăn giặc, yên dân, tập trung vùng Châu Đốc và Hà Tiên, đặc biệt là ở vùng Vĩnh Tế.
Năm 1854, Nguyễn Tri Phương báo cáo đã thành lập được 21 cơ đồn điền. Hai năm sau, tỉnh An Giang và Hà Tiên đã chiêu mộ được 1.646 dân đinh, lập 159 thôn ấp . Trong thời gian này, người Chăm ở ngang chợ Châu Đốc (Đa Phước, Châu Phong) cũng gom lại từng đội, do 1 viên hiệp quản đứng đầu. Từ bên Chân Lạp, người Chăm rút về, nương náu trong lãnh thổ Việt Nam để tránh loạn lạc nội chiến bên Chân Lạp, rồi định cư luôn ở Việt Nam (Tân Châu, An Phú ngày nay).
Song song đó, người theo đạo Thiên Chúa lánh nạn kỳ thị tôn giáo của vua quan nhà Nguyễn từ miền ngoài đến khá sớm ở cù lao Giêng (1778), Bò Ót (1779) và Năng Gù (1845) đã làm tăng thêm dân số vùng đất An Giang ngay từ buổi đầu.
Triều đình nhà Nguyễn rất quan tâm đến việc củng cố biên giới phía Nam, "vì địa thế Châu Đốc, Hà Tiên cũng không kém Bắc Thành" ( Vua Gia Long). năm 1830, vua Minh Mạng phán cho bộ Hộ rằng: "Đồn Châu Đốc lúc đó chưa có tỉnh là vùng địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ chiêu tập dân buôn bán, cho vay tiền gạo để lập ấp khẩn điền, quây quần sinh nhai. Đó là ý niệm quan trọng của ta trong vấn đề củng cố biên cương". Buổi đầu, việc khai khẩn còn khó khăn, thuế khoá đã được miễn nhiều lần. Trong thực tế triều đình đã dùng nhiều biện pháp để chiêu dụ, thu nạp dân, để cho đồng áng ngày càng mở mang, cuộc sống người dân càng được nâng lên.
Như vậy, đến khai phá đất An Giang, ngoài dân lưu tán tự phát vào khai khẩn, còn có một bộ phận dân hưởng ứng chính sách khuyến khích khai hoang của nhà Nguyễn nên số lưu dân đến tăng lên khá nhanh. Một thuận lợi cho An Giang nữa là lúc đó miền Long An, Mỹ Tho đất tốt hầu như không còn cho dân khai khẩn, nên dân di cư tràn xuống miền sông Hậu, đến khai phá cánh đồng hoang vu mênh mông ở tỉnh An Giang.
Vào nửa sau thế kỷ 19, nhất là sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, chế độ đồn điền trì trệ. Quân lính trong các đồn điền chuyển sang chiến đấu chống Pháp, nhà Nguyễn buộc phải chuyển sang hình thức doanh điền tiến hành thực hiện ở các tỉnh. Các nhà doanh điền ở An Giang và Hà Tiên được thành lập. Đến năm 1866, doanh điền sứ An Giang- Hà Tiên là Trần Hoàn báo cáo đã mộ được 1.646 dân đinh, thành lập 149 thôn, khẩn được 8.333 mẫu ruộng.