What's new

Các bài sưu tầm

hy1so3.jpg


NHÃN LỒNG HƯNG YÊN

Nhãn là quà tặng của trời cho đất Phố Hiến. Hưng Yên nổi danh khắp nước cũng nhờ có nhãn. Kỳ lạ thay, cũng là đất bãi sông Hồng mà chỉ có nhãn Phố Hiến mới được coi là vua của loài nhãn. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng mô tả: “mỗi lần bỏ vào miệng thì tận trong răng lưỡi đã nảy ra vị thơm tựa như nước thánh trời cho”. Những yếu tố vi lượng nào đã làm cho nhãn có hương vị đặc biệt khác hẳn cây nhãn ở những vùng đất khác? Chưa ai khám phá ra điều bí ẩn đó nhưng mời bạn thử đến Phố Hiến vào mùa nhãn nếm thử. Cùi nhãn trong như hổ phách, hạt nhỏ, nước ngọt mát và thơm lạ lùng. Ấy là thứ nhãn nước, loại nhãn đại trà của xứ nhãn, chứ ở đây còn có nhãn lồng, nhãn đường phèn mới thực quý.
Nhãn được trồng nhiều ở ven đê từ Đằng Châu, Xích Đằng đến cửa sông Luộc. Rễ nhãn bám chắc vào đất. Trồng mấy cây nhãn quanh nhà, bóng xum xuê tỏa mát và khi có gió bão nó cản gió rất khoẻ. Gỗ nhãn rắn chắc, đỏ hồng, đóng đồ gia dụng bền chắc. Than đốt rất đượm, sắc thuốc phải dùng đến nó vừa nhàn lại vừa chóng, có nước cốt, chất thuốc không lạc vị. Đó là thứ cây hiến cho đời tất cả cái gì mình có. Mùa nhãn ra hoa đúng vào mùa mưa xuân, có ngày giá lạnh. Nếu trời đất âm u kéo dài, hoa rụng đầy sân. Thảng hoặc được vài ngày trời trong, nắng ấm thì cả bầu trời dậy lên tiếng ong, hương thơm tỏa nhẹ ngây ngất lòng người.
Mùa quả chín vào tháng sáu âm lịch. Ca dao có câu “Tháng sáu buôn nhãn bán trăm”. Một túm nhãn khoảng trăm quả, kèm thêm vài cành lá tươi đặt trên ban thờ, thắp nén hương khấn ông bà ông vải về chứng giám cũng là một nét đẹp văn hoá. Nhãn thóc chỉ dùng cho trẻ ăn chơi, nhãn nước sấy khô làm long nhãn, còn nhãn lồng quả to, da láng, cùi dày, dòn thơm để tiếp khách, làm quà biếu. Ăn một quả nhãn đường phèn, nước ngọt thấm từ đầu lưỡi đến chân răng rồi lan khắp cơ thể. Tinh hoa của đất trời thu góp lại hiến dâng cho người trồng nó. Quả nhãn phơi khô cả cành, ngày Tết thêm mấy cành lá xanh sẽ là niềm vui bất ngờ cho người chơi sành điệu. Long nhãn là vị thuốc bổ âm, ngâm với rượu, mỗi ngày uống một vài chén, ăn sẽ ngon hơn, ngủ sâu hơn, tính tình điềm đạm hơn.

Một vùng đất bạt ngàn nhãn, ong, thiên nhiên đã ưu đãi Phố Hiến thứ làm rung động trái tim người tha hương khi nghĩ tới quê mình trong chiều sâu văn hóa.
Khách về Hưng Yên, thường đến thăm cây nhãn tiến (thường quen gọi là nhãn Tổ), có tuổi mấy trăm năm ở trước cửa chùa Hiến.

( sưu tầm )
 
Last edited:
Các bài sưu tầm

Trong bộ phim “Bao giờ cho đến tháng Mười” đạo diễn Đặng Nhật Minh đã xây dựng một trường đoạn xúc động: do quá đỗi đau khổ, âm thầm nhớ thương người chồng đã hy sinh trên chiến trường, người vợ trẻ đã đến miếu Thủy Thần trong làng cầu xin được dẫn đường chỉ lối tới cõi u minh gặp chồng. Họ đã gặp nhau trong phiên chợ Âm Dương, bàn tay hai người cứ muốn cầm nắm lấy nhau nhưng cố gắng thế nào cũng không được, thành thử đôi uyên ương này cứ rượt đuổi bóng hình trong vũ khúc luân hồi hư ảo.

Ý tưởng về trường đoạn trên được gợi mở từ câu chuyện về chợ Âm Dương ở làng ó (tên chữ là Xuân ổ) thuộc xã Võ Cường (Bắc Ninh) mà nhà văn Đỗ Chu kể cho đạo diễn Đặng Nhật Minh.
Gọi là chợ Âm Dương bởi chợ không họp vào ban ngày, không có phiên chính phiên xép; mỗi năm chỉ họp một lần vào đêm mồng Bốn tháng Giêng lúc chạng vạng tối, thời điểm âm dương đang “chuyển kênh”, trời đất giao hòa.

Phiên chợ kỳ lạ ấy đã tồn tại như một huyền thoại ở ngôi làng đã có tuổi đời 3.500 năm nằm bên tay phải cây số 27 nếu từ Hà Nội theo đường quốc lộ số 1 ngược lên phía Bắc. Nơi đây, hiện tại và quá khứ thăm thẳm đan xen thấp thoáng trong muôn ngàn màu xanh lá cây, trong lô xô những dãy nhà cao tầng, trong gương hồ biếc soi bóng mái cong đình làng.

Những câu hát âm vang thay lời giới thiệu, quảng bá về một vùng đất Quan họ tưng bừng rộn rã lễ hội đầu Xuân:

Mồng Bốn là hội kéo co
Mồng Năm hội ó chẳng cho nhau về

Không hiểu ai là người đầu tiên khởi xướng loại... Hội chợ độc đáo cho cả người sống và người chết để tất cả cùng thanh thản, vui vẻ đón xuân.

Truyền thuyết kể lại rằng: nơi đây từ ngàn xưa từng là bãi chiến trường ngập chìm trong máu, lửa “Trống trường thành lung linh bóng nguyệt. Khói cam tuyền mờ mịt thức mây”. Bao sinh linh tử trận, hay lâm nạn đã hóa thành những vong hồn phiêu diêu trong không gian với những nỗi niềm u uẩn...

Thấu cảm và mong cầu sự siêu thoát tâm linh cho các vong hồn chiến binh, thập loại chúng sinh và vạn vật thì ngoài việc thờ cúng nơi đình chùa đền miếu còn có phiên chợ Âm Dương cũng vì ý nghĩa nhân văn ấy.

Khi hoàng hôn mờ tỏ, bồng bềnh cùng sương khói trong không gian, xóm làng bàng bạc bức tranh thủy mạc, thấp thoáng lên đèn cũng là lúc dương đi âm đến. Người ta tất bật mang ra chợ những chú gà đen (phải chăng vì thế mà làng có tên gọi là ó?) đã được chăm sóc nuôi nấng cẩn thận. Trên một khoảng đất trống khá rộng cạnh một cái miếu thiêng trong làng chợ họp không đèn đuốc không lều quán. Những chú gà đen - vật tế thành hoàng làng và những bó hàng mã, hương đăng, gạo muối được bày la liệt thành dãy trong đêm sau 3 ngày Tết “Mồng Một thì ở nhà Cha, mồng Hai nhà Mẹ, mồng Ba nhà Thày”.

Người mua không mặc cả, người bán không cần đếm tiền, họ cứ lặng lẽ trao tiền và đồ vật cho nhau như ngầm hiểu, thỏa thuận. Trong chốn “tù mù thiên địa”, người ta đang “mua may bán rủi” người cõi dương đang đi chợ với người cõi âm. Người mua kẻ bán nườm nượp nhưng không rõ ai là người ai là ma, mà phân biệt để làm gì? Từ người chết thuở làng ó còn hoang sơ toàn rừng rậm đầm lầy “dưới thì nước, trên thì mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt” (Hậu Hán thư) đến người hy sinh vì Tổ quốc và những số phận rủi ro bất hạnh “nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”... Tất cả, vong linh muôn đời muôn kiếp rủ rín nhau về phiên chợ Âm Dương để sắm sửa, mua bán, đổi buồn lấy vui.

Người ta không dám cười nói ồn ào vì sợ những hồn ma hoảng sợ, không dám thắp đèn vì sợ những chú gà đen tưởng ánh bình minh sẽ cất tiếng gáy gọi mặt trời khiến những hồn ma sẽ tan tác bay đi. Chỉ có ánh sáng của chòm sao Nam Tào - Bắc Đẩu vời vợi giữa thiên hà soi rọi cho các sinh linh đang hối hả giao thương, giao lưu.

Ở đầu chợ có đặt một chậu nước để thử xem tiền cõi dương hay tiền cõi âm nhưng rồi vẫn phải cầm tiền ma. Có người đã kể rằng chính mình nhận rõ ràng là tiền thật nhưng sáng hôm sau xem lại thì thấy là một đống vỏ hến. Có người lại thấy vài mảnh bát, mảnh chai, viên sỏi hoặc chiếc cúc áo, mẩu... yếm sồi.

Người có được những “vật quý” đó không tức bực, không cho mình bị thua thiệt trái lại hết sức vui sướng cho rằng đã có duyên làm điều phúc, điều thiện với những người đã chết.

Chợ Âm Dương làng ó phải chăng là dấu vết hoài niệm chợ nguyên thủy trong thương nghiệp là một hình thức lễ hội đoàn tụ giao hòa hồn vía vũ trụ, con người trong các cõi trước mùa Xuân - biểu tượng của sự sinh thành?

Chợ tan vào khoảng tám, chín giờ tối, người ta mời nhau vào các lầu quán bên đường xơi trầu, uống nước và hát canh Quan họ thâu đêm.

Với những lời ca thiết tha được dồn nén, thăng hoa từ vạn thuở, người sống hát cho mình và hát cho cả người chết:

Mặt trời đã tắt
Đêm hội đã tàn
Các phận hồng nhan
Người mang về cả
Cái giòn cái giã
ở cả nơi người
Nơi đứng nơi ngồi
Trong thì xe thắm
Ngoài thì xe thâm
Mong kết tri âm
Sao người chẳng biết...

Phiên chợ Âm Dương đã tàn nhưng những câu hát “Liêu Trai” thấm đẫm tình người vẫn lưu luyến lòng ai, thầm hẹn mùa Xuân năm sau “đến hẹn lại lên”.

Nguồn: ST
 
Last edited by a moderator:
Chợ âm dương" họp ở xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh: có tên gọi là "chợ Chằm".
Chợ Chằm là một chợ dân sinh nhỏ, phục vụ nhu cầu mua sắm của nhân dân trong xã Mão Điền cũng như vùng lân cận. Bình thường, chợ không họp liên tục, mà chỉ họp ấn định vào các ngày mùng 4, 9, 14, 18, 24, 28 trong tháng,theo lịch âm. Tuy nhiên chỉ có phiên chợ tết ngày mùng 4 tháng Giếng (4/1 - âm lịch) là được gọi là chợ âm dương.

Bởi vì, tương truyền nơi đây trước kia cũng là nơi chiến trường đẫm máu (từ thời phong kiến xa xưa), số người chết nhiều không kể xiết. Theo quan niệm duy tâm xưa, các oan hồn này không được siêu thoát, mà bị lưu vong ở dưới địa ngục (không được đầu thai), chỉ đến dịp tết hàng năm mới được "hồn lên dương thế" quay lại nơi mình đã chết trước kia.

Chuyện kể rằng, từ sau năm có chiến tranh không lâu, người dân họp chợ ngày mùng 4 tháng Giêng hay gặp những chuyện lạ thường như: đi mua bán hay bị đưa tiền giả, mang về nhà mới biết (tiền xu bị biến thành đất, lá chuối khô,...), người dân nghi là do các oan hồn chiến sĩ đã về đi chợ mua hàng, họ trả tiền âm phủ, ở chợ có quá nhiều âm khí nên không nhận ra được. Ban đầu nhân dân trong vùng cũng nhờ thầy về cúng xua đuổi tà ma, nhưng không nổi vì âm khí quá nặng. Sau đó họ được thầy bày cho cách là khi đi chợ thì mang theo một thau nước (nhất là người bán), kiểm tra tiền chỉ cần thả vào nước là biết, nếu chìm là tiền thật, nổi là tiền giả!

Do đã có cách phân biệt tiền âm, tiền dương, hơn nữa mỗi năm người âm cũng chỉ lên có một lần, nên người ta vẫn tiến hành họp chợ bình thường.

Cho đến thời gian gần đây (thời phong kiến trước Cch mạng Tháng 8) , mặc dù không mua bán được bằng tiền âm, nhưnng dường như các hồn vẫn muốn tranh thủ cơ hội lên trần đi chợ ngắm cảnh, tham quan - nên người ta vẫn thi thoảng có những câu chuyện chứng tỏ người âm lên trần, mặc dù thưa thớt dần đi.

Cho đến bây giờ, thì người dân trong vùng đã không đi họp chợ vào ngày mùng 4 tháng Giêng nữa, coi như nhường hẳn cho người âm không gian khu chợ trong ngày đó. Kèm theo đó là tín ngưỡng hóa vàng, cúng cho tổ tiên và các thần linh, người dân trong vùng cũng đồng loạt tiến hành vào sáng sớm ngày mồng 4 tết, để cho người âm kịp đi chợ ngày hôm đó.
 
các bác nên đi tối mùng 4 âm lịch nhé , chúc các bác có chuyến đi vui vẻ, nhà em xa quá nên ko thể đi được
 
Tây Bắc mùa này Đẹp lắm

Vì sao đường đi khó thế mà những khách lữ hành quốc tế, ở nhiều quốc gia xa xôi vẫn vác ba lô đến đây? Bởi vì còn nhiều bản làng hoang sơ với nét đẹp dân tộc mà họ cần phải khám phá...
Đường lên Shìn Hồ từ Mường Lay, rất nhiều khúc quanh co hình chữ S, số 8
Shìn Hồ bắt đầu từ cây số không
Qua miền Tây bắc vào dịp cuối đông, bất chợt gặp một thảm hoa cải trắng, hoa cúc quỳ vàng, hoa ban đỏ, hoa dẻ ngát hương chỉ với tay là chạm tới cây... Cảm giác va chạm với thiên nhiên, xua đi bao cực nhọc dọc đường. Những ổ gà, những dốc cao hoa mắt, chợt rừng hạt dẻ hiện ra, rừng trám trắng, nhiều cây khô trơ trọi lẩn khuất trong sương mù.
Suối, bao nhiêu ngọn suối không tên. Tôi không thể nhớ hết dọc đường đi Tây Bắc. Chỉ nhớ được suối Nậm Mu ở gần bản Hon, suối Thia, suối Mường Lay hoa cải như dát vàng bên bờ cát mịn. Từ đường 6 lên Shìn Hồ, Phong Thổ, nơi mà hai chấm son cao chót vót của đỉnh biên giới miền Tây Bắc nước Việt. Khi bạn đặt chân đến Shìn Hồ, Phong Thổ phải vượt gần 800 cây số, đường không dài lắm nhưng phải vượt hàng chục cây số ổ gà, dốc núi cheo leo, những cua đường thót tim, những dốc núi nín thở, để đến với bản làng có cảm giác cứ giơ tay có thể chạm tới mặt trời, giơ tay có thể vớt hoàng hôn lên. Đó là độ cao trên 1.000m.
Đường vào bản Sáng (huyện Tuần Giáo), xe phải đẩy qua suối mới đi được
Tuyến đường trọng điểm này đang thi công, hy vọng năm 2008 đường sẽ được cải thiện. Chợt ý nghĩ trong đầu, vì sao đường đi khó thế mà những nhà lữ hành quốc tế, họ ở các quốc tịch khác nhau, vác ba lô tới đây.
Bởi vì nhiều bản làng còn nguyên sơ, những ngôi nhà đất thó 100% đặc quánh, khi gió táp, gió đập, chui vào ấm vô cùng. Bếp nhà nào cũng luôn đỏ lửa.
Ngoài vùng phủ sóng
Cách Shìn Hồ 28 cây số là cửa khẩu Ma Lù Thàng, nơi nghe tiếng gà gáy bên đất Trung Hoa. Còn cửa khẩu quốc tế Tây Trang, cũng cách Shìn Hồ vài chục cây số, trưởng đồn thượng tá Nguyễn Văn Thắm cho hay sắp tới sẽ có máy soi hộ chiếu và hàng hoá, nhưng vi tính đồn biên phòng mới có 1 - 2 chiếc mà chưa cập nhật internet. Những cung đường chúng tôi đi ngoài vùng phủ sóng, và không có email. Một lần lạc đường tìm nhau cũng mất nửa ngày. Ông Lò A Páo bảo: Có nửa ngày mà cũng lo à. Ở bản lạc núi 1, 2 ngày đường cũng không lo cái đầu, chỉ lo cái bụng đói thôi.
Hành lang phía tây bắc giáp Lào, Trung Quốc, nếu hai cửa khẩu quốc tế đi vào hoạt động thì du khách quốc tế đi lại rất thuận tiện.
Những nhà lữ hành Việt Nam đã đi khảo sát tuyến điểm này nhằm khai thác thị trường khách Đông Âu, Tây Âu và Bắc Mỹ.
Đến Shìn Hồ bạn sẽ du lịch leo núi lên Cổng Trời qua bản Hoàng Hồ của người Mông, nhìn sang bên núi là bản nguời Dao đỏ, La Hủ, Si La. Thật may tôi đã gặp ông Giàng A Dơ chủ tịch xã Pu Sam Cáp, ông bảo đi sang bản Nậm Núc phải mất một ngày đường. Người Mông đỏ sống cao ngất trên mây, thời gian đi phải tính bằng ngày đường. Đi bộ leo lên bản Hoàng Hồ có hơn 100 nóc nhà, tôi gặp những người phụ nữ gùi củi sau lưng, địu con trước ngực, họ đi hàng chục cây số, nhẫn nại như con lạc đà trên sa mạc. Trái tim tôi run rẩy vì sợ mưa núi ập xuống hai mẹ con họ trú vào đâu, hàng chục cây số không thấy một túp lều.
Người dân tộc Lự từ thôn bản lên phố bán áo, khăn, túi thêu...
Đi hơn 10 cây số nữa là đến bản Tả Phìn, bản của người Dao chiếm đa số ở đây. Bản có 8 thôn, hơn 300 hộ đông đúc. Tôi ngồi với chị Chảo Kim Mỵ, tò mò xem khắp bếp, khắp nồi xoong chảo. Không có gì ngoài ngô, và mèn mén. Có đàn gà phải bán đi cho con đi học, còn con trâu để đi cày thôi. Con lợn phải giáp tết bán đi mua quần áo cho con. Vài lời thoại, đã hiện lên nếp nhà. Khốn khó mà vẫn bình thản.
Không có tốc độ trên đường đến bản Tả Phìn, càng không có tốc độ trên đường đến bản Hon, bản người Dao đỏ bên kia là con suối Nậm Mu, đi một ngày đường mới gặp một người gùi rau để hỏi thăm đường.
Trẻ em ở bản Sáng huyện Tuần Châu, bản Kim Nọi của người dân tôc Lự, còn rất hồn nhiên. Các em thấy khách đến chạy theo suốt bản chỉ đường, chụp ảnh không vòi tiền như ở Lào Cai - Sa Pa. Bản Sáng còn một cả một tài nguyên những vòi nước khoáng nóng đùn lên mà chưa khai thác tiềm năng du lịch. Phải chờ nhà đầu tư thôi, thì may ra bản Sáng mới gọi khách du lịch vào bản. Một bản đẹp như tranh thuỷ mặc, còn như dấu chấm hỏi trong đầu các nhà lữ hành và các doanh nghiệp miền xuôi. Hình như đường đi vẫn là một rào cản, vì đường quá xa, và còn vấp một con suối rất khó cho xe qua. Vào bản phải đi bộ gần hai cây số.
Rồi đi qua Phong Thổ chạm mắt là dốc núi, là suối sâu, là va quệt bởi màu vàng hoang dã của cúc quỳ, màu khói lam của con suối cạn, ai đó đốt cây khô. Khói đã làm ấm rừng hạt dẻ gai, rừng trám trắng bị bỏ quên.
Rồi vòng về Nghĩa Lộ đi đồi chè cổ thụ. Bản Ba Pe, bản Kim Nọi của dân tộc Lự tràn xuống đường bán thổ cẩm và nữ trang. Người Lự rất hiền, mời mua giúp áo, mũ, vòng tay. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ dưới xuôi còn bỏ ngỏ một thị trường thổ cẩm thêu tay rất kỹ lưỡng của đồng bào Lự.
Nhưng biết nói gì với vài giờ đồng hồ khi mà bà con cứ thấy du khách đến thì nói thách rất cao, làm sao họ hiểu được rằng hàng hoá đẹp cũng cần giá phải chăng? Ai sẽ giúp họ tiếp thị đây? Tôi chỉ nghe thấy suối Thia chảy dữ dội, và những tảng đá lớn ngăn giữa dòng. Đường về dưới xuôi, còn xa ngái.
Rồi bạn ngợp trong những ô ruộng bậc thang thiên đường của Mù Căng Chải, là lúa vàng và hoa chè shan tuyết phủ khắp lối đi.
Đường lên Mũi Lèng (Cổng trời) của dân bản Shìn Hồ, trẻ em đi lấy rau, củi về nhà
Bây giờ lên Tây Bắc tôi mới hiểu vì sao phải đi rất xa, rất dốc có khi còn hiểm nguy mà lữ hành gia cứ đi. Vì nơi này còn nhiều thôn bản chưa bị bê tông hoá. Còn những cánh rừng nguyên sinh, và còn nụ cười làm trái tim ta bật khóc. Phải cúi xuống mà giấu đi nước mắt, xót thương những người phụ nữ nghèo. Họ bình thản đi qua cõi này như mây, như khói, như suối chảy. Không kêu ca, đòi hỏi gì, nhất là quyền phụ nữ, quyền bình đẳng.
Tôi đã nhìn thấy rừng hoa dẻ gai, trám trắng và cúc quỳ vàng, xin tựa vào đá núi, cảm ơn cây rừng cho tôi thấy mình giàu có vì đã gặp những người phụ nữ đẹp, chịu thương chịu khó chăm sóc gia đình ở giữa rừng xanh núi cao hùng vĩ của Tây Bắc điệp trùng của Tổ quốc.
Chính họ đã chinh phục những nhà lữ hành đến từ các phương trời xa mang văn minh đến thôn bản, nhưng lại bị văn hoá thôn bản chinh phục lại. Đó là vẻ đẹp hoang sơ, ngàn đời còn huyền bí của Tây Bắc.
(Theo HOÀNG VIỆT HẰNG - Sài Gòn tiếp thị )
 
Last edited:
Đề nghị bạn cho biết nguồn của bài viết ?

Tôi đọc bài, cùng những câu cụt, đoán rằng chỗ đó có ảnh (nhưng không có), nên cho rằng bạn copy từ nơi khác về.

Nếu đúng là chỉ copy về thì bạn cần phải nêu rõ nguồn.
Nếu là bài của bạn viết thì đề nghị chỉnh lại, hoặc có ảnh vào đúng chỗ.

Trong box đã có nhiều topic chuyên về Tây Bắc, cụ thể và sâu sắc. Tôi nghĩ topic chung chung kiểu một bài báo trên mạng thế này không đem lại thông tin gì thêm cho forum.

Rất mong bạn phát triển được nó.
 
Vâng, cảm ơn bác Dudi.

Chuyện copy bài của người khác từ nơi khác gửi về, đã có chuyện Xomdulich trước kia rồi.

Phượt tuy nhỏ, nhưng các thành viên đều tự mình viết trải nghiệm, cảm nhận, không phải lấy từ người khác. Do đó rất khuyến khích thành viên viết kinh nghiệm của mình. Nhưng cũng không vì thế mà cầu nhiều topic, nhiều bài bằng cách cóp nhặt nơi khác về. Nếu copy về thì cũng vì mục đích thông tin, trích dẫn thông tin cần thiết, chứ không phải những bài cảm nhận của người khác trên báo điện tử.

Tớ sẽ gom hết các bài copy từ báo điện tử vào một topic thôi, mang tên là topic "Sưu tầm". Nếu các bác nào phát hiện topic nào là copy thì thông báo, để tập trung trong một chỗ.

Nếu bác nào thấy có ý kiến gì khác xin viết vào đây luôn.
 

Hỏi Phượt

Forum statistics

Threads
56,545
Bài viết
1,153,604
Members
190,116
Latest member
Thangcho07
Back
Top