What's new

Đế chế La Mã

eskimot09

Lạnh
Mở hàng box này bằng một topic về lịch sử văn hóa, coi như một lời nhắn đến các Sử gia Chitto và Zorro nào :D
 
Đế chế bao trùm thế giới, có lãnh địa trải dài khắp Châu Âu, ra đến miền Bắc Phi, Tiểu Á, Trung Á và hầu hết Địa Trung Hải, ảnh hưởng và chi phối văn hóa thế giới trong nhiều thế kỷ và cho đến tận ngày nay... Đừng hỏi tại sao tôi yêu La Mã. Đế chế La Mã là 1 trong những điều vĩ đại nhất mà con người đã được chứng kiến. Tôi đã tìm kiếm & đọc khá nhiều site về La Mã trong đó đặc biệt thích các tài liệu World Civilization của Washington State University và site Roman-empire

Trong 1 giai đoạn hụt hẫng vì công việc, tôi đã lần mò dịch những tài liệu trên ra tiếng Việt. Mục đích chỉ là để giúp mình bình tâm trở lại... Đáng ngạc nhiên là khi mọi chuyện qua đi thì bản dịch cũng đã tương đối dầy. Với vốn tiếng Anh rất khiêm tốn của mình, tôi đã dịch thô gần xong phần tư liệu về La Mã trong cả 2 tài liệu nói trên. Từ khởi thủy, bành trướng, xung đột, phát triển hưng thịnh và suy vong... Bản dịch đã được Up lên Box Lịch sử văn hóa trên TTVN và đã có khá nhiều người PM xin được dùng lại trên những diễn đàn lịch sử khác nhau như VNISONE.com, Lichsuvn.info,...

Tôi sẽ lần lượt Up lại những bài viết đó lên đây. Hầu hết những sự kiện và những vĩ nhân đã làm nên 1 La Mã đế chế. Sẽ là Ceasar với câu nói kiêu ngạo tột cùng: "I came, I saw, I conquered", là Augustus, người đã tạo ra 1 La Mã vàng son trên mọi lĩnh vực, và Trajan, người xứng danh với Augustus là 2 tấm gương mà mọi triều đại La Mã đều muốn noi theo "Felicior Augusto, Melior Traiano". Sẽ có vài chiến dịch quân sự mang tính bước ngoặt. Là chiến tranh Punic, cuộc chiến đã đưa La Mã từ 1 quyền lực có tính khu vực trở thành 1 đế chế thực sự trên thế giới, cuộc chiến mà Hannibal đã xuất hiện để rồi được lưu danh là một trong những chiến tướng vĩ đại nhất thế giới. Là trận Phasalus, nơi Ceasar chôn vùi ước mơ khôi phục La Mã Cộng Hòa nhưng lại bắt đầu 1 ước mơ khác vĩ đại hơn là La Mã Đế Chế sau này. Là trận thủy chiến Actium, trận chiến đã chôn vùi sự nghiệp & cuộc đời của 1 trong những người đàn bà nổi tiếng nhất thế giới: Cleopatra, và giới thiệu với toàn thế giới vị Hoàng Đế vĩ đại nhất trong lịch sử La Mã: Augustus...
 
Chờ đọc bài viết của bác Est. Bữa nọ AV cũng ngồi đọc miệt mài lịch sử Hi Lạp.

Ôi Hi Lạp của tui :))
 
Vương quốc La Mã

Theo các nhà khảo cổ, La Mã được thanh lập vào khoảng năm 753 trước công nguyên bởi những người Italic sống ở phía nam sông Tiber. Sự phát triển của xã hội La Mã là sự mô phỏng người láng giềng Etruscans ở phía Nam. Thể chế nhà nước ban đầu của La Mã là thể chế quân chủ được xây dựng trên nền tảng xã hội bộ lạc. Trong xã hội khởi thủy này, người đàn ông có quyền quyết định và là thầy tế trong gia đình. Họ có quyền bán con cái như nô lệ hoặc thậm chí giết chúng. Sự độc đoán này bị hạn chế sau khi thành lập nhà nước. Trước khi bán con hay giết chúng, người đàn ông phải tham vấn gia đình mình và cộng đồng chung quanh. Quyền lực của Quốc vương trong thể chế quân chủ La Mã cũng tương tự như vậy. Nói cách khác, Quốc vương giống như 1 vị tộc trưởng bị ràng buộc bởi mối quan hệ nghĩa vụ và quyền lợi đối với các thành viên trong tộc. Quốc vương có quyền tuyệt đối, là người đặt ra luật pháp, thống lĩnh quân đội, là tòa án và là thầy tế cả.

Tuy nhiên quyền lực của Quốc vương được giới hạn và kiểm soát bởi một hiến pháp mà ông ta không được phép thay đổi. Hiến pháp này do Viện nguyên lão (VNL) và quốc hội lập ra. Viện nguyên lão là hội đồng gồm các trưởng lão, là thủ lĩnh của các thị tộc khác nhau, là 1 hình thức liên minh các thị tộc. VNL có quyền chấp thuận và phủ quyết việc bổ nhiệm quốc vương, có quyền kiểm tra và phán quyết tính hợp hiến và tuân theo truyền thống của các luật lệ và hành động của quốc vương. Về mặt này, VNL La Mã có chức năng gần giống với tòa án tối cao Hoa Kỳ ngày nay. Quốc hội thì bao gồm toàn bộ công dân nam La Mã. Quyền công dân chỉ dành cho những người có cả bố và mẹ là người gốc La Mã. Chức năng của quốc hội là trao cho vị vua được VNL lựa chọn quyền lực tuyệt đối. Quốc hội được tổ chức thành 30 nhóm trên cơ sở mối quan hệ huyết thống, mỗi nhóm có 1 phiếu bầu và đưa ra phiếu của mình trên quyết định đồng thuận của số đông trong nhóm. Như vậy, nếu ai đó có tiếng nói quan trọng trong chính phủ thì ở quốc hội, ảnh hưởng này đã được làm giảm đi rất nhiều với cách thức chia phiếu bầu theo nhóm nói trên.

Sự phát triển sức mạnh và tầm ảnh hưởng của La Mã làm của cải tập trung vào 1 bộ phận nhỏ và khiến xã hội phân chia thanh 2 giai cấp: quý tộc và bình dân. Giới quý tộc kiểm soát hầu hết tài sản, việc buôn bán, quyền lực và quân đội. Và chỉ có họ mới có thể có vị trí trong VNL hay quốc hội. Giới bình dân chiếm phần lớn dân số, hầu hết là nông dân và thợ thủ công làm việc cho giới quý tộc (trừ 1 số ít tự làm trong nông trại nhỏ của mình). Họ không hề có tiếng nói trong chính phủ.

Dưới thời quân chủ, La Mã mở rộng tầm kiểm soát đáng kể đến các địa hạt chung quanh. Thể chế quân chủ bản thân nó được thành lập với mục đích mang đến sự ổn định và an toàn. Việc xâm chiếm các địa giới chung quanh không có nghĩa rằng La Mã thèm muốn đất đai và của cải của những nơi này mà dường như là bởi mối lo đối với sự đe dọa đến từ các cư dân chung quanh. Tuy nhiên, việc mở rộng địa giới của La Mã đã thu hút sự chú ý của người láng giềng Etruscans hùng mạnh ở phía Bắc. Chế độ quân chủ La Mã rơi vào tay người Etruscans vào giữa thế kỷ 6 trước công nguyên. Người La Mã chống lại 1 cách cay đắng. Cuối cùng, khi 1 hoàng tử của Etruscans thuộc gia đình Tarquins đang cai trị La Mã cưỡng bức vợ của 1 quý tộc (sự kiện này có được nhắc đến trong sử liệu của nhà sử học Livy nhưng nhiều người cho rằng đây có lẽ chỉ là 1 câu chuyện hư cấu), dân La Mã đã nổi dậy đánh đổ quyền lực của Tarquins năm 509 trước CN. Nền văn minh Etruscans bắt đầu đi xuống từ đây.

Sau khi giành lại độc lập, với việc xóa bỏ hoàn toàn thể chế quân chủ thay vì thiết lập lại nó, thời đại của nền Cộng hòa La Mã, thời đại chứng kiến sự lớn mạnh vĩ đại của quyền lực La Mã bắt đầu.

(to be continued)
 
NỀn CỘng Hòa La Mã

Sau khi Junius Brutus lật đổ vương triều Tarquin năm 509 trước CN, La Mã bước vào kỷ nguyên của nền cộng hòa, thể chế cai trị bởi Viện nguyên lão và quốc hội. Lịch sử của Cộng hòa La Mã là lịch sử của những cuộc chiến tranh. Tất cả các câu chuyện lịch sử người La Mã sẽ dùng như là minh chứng cho các ưu điểm và giá trị La Mã đều bắt đầu từ giai đoạn dữ dội này, giai đoạn của các cuộc xâm lược và bảo vệ đất nước. Trước nay, hiến pháp của La Mã không tồn tại chính thức hay được viết ra thành văn bản mà là một loạt các giá trị và luật bất thành văn. Nó được định ra trên cơ sở của 1 vương triều trong quá khứ, bởi vậy dù không khôi phục nền quân chủ, người La Mã vẫn dành những quyền lực to lớn cho các quan chức.

Ở vị trí cao nhất là hai quan chấp chính, được bầu cử hàng năm trong số những nhà quý tộc. Cũng giống với các quốc vương trong thời quân chủ, 2 quan chấp chính đưa ra luật pháp, nắm giữ tòa án, quân đội và vị trí trưởng tế của quốc gia. Phục sức của họ giống với các vị vua trong quá khứ, áo choàng tía và ngồi trên ghế truyền thống dành riêng cho nhà vua. Tuy nhiên, quyền lực của họ đã bị hạn chế rất nhiều. Thứ nhất, họ tại vị chỉ có 1 năm, sau đó có thể được bầu lại hoặc trở về đời sống riêng. Thứ hai, có 2 quan cùng chấp chính, và vị này có thể ngăn cản có hiệu quả bất cứ quyết định hay hành động nào của vị kia bằng quyền phủ quyết. Thứ ba, các quan chấp chính tiếp tục phải phục vụ ở Viện nguyên lão sau khi nhiệm kỳ chấm dứt, điều này khiến họ chuyên tâm hợp tác với Viện nguyên lão. Kết quả của những việc này là các quan chấp chính không thực sự chủ động và sáng tạo, bởi vậy chính phủ La Mã có khuynh hướng bảo thủ và thận trọng. Đến năm 325 trước CN, vị trí này được đổi thành quan thống đốc, là những quan chấp chính tại vị nhiều nhiệm kỳ do yêu cầu của các chiến dịch quân sự.

Dưới 2 quan chấp chính là 2 quan coi quốc khố và 1 pháp quan. Chức pháp quan lúc đầu thuộc về tòa án, nhưng sau này trở thành 1 chức danh quân sự, các pháp quan là các vị tướng chủ chốt của La Mã. Vị trí pháp quan cũng như quan chấp chính có nhiệm kỳ 1 năm, và cũng có thể kéo dài trong thời gian chiến tranh. Ngoài ra, việc phân loại dân chúng theo tài sản và mức đóng thuế (đáng lẽ là nhiệm vụ của quan chấp chính) là việc của 2 quan chức (tạm) gọi là giám quan. Nhiệm vụ của họ là lên hồ sơ dân chúng và định mức thuế phải nộp. Do đó họ có rất nhiều cơ hội để ăn cắp và tham nhũng. Bởi vậy, vị trí này chỉ được giao cho các nguyên chấp chính quan, những người có đạo đức và liêm khiết nhất. Các giám quan có quyền lực lớn, họ có thể thải hồi các nghị sĩ trong Viện nguyên lão không chỉ vì các vướng mắc tài chính mà có thể vì bất cứ lý do gì. Vào giai đoạn cuối của nền cộng hòa, các giám quan nằm trong số những chính trị gia có quyền lực nhất ở La Mã.

Với việc quyền lực hoàn toàn tập trung trong tay giới quý tộc, thể chế cộng hòa La Mã lúc bắt đầu là 1 hình thức chuyển giao quyền lực từ quốc vương sang tầng lớp giàu có nhất La Mã. Tính chất thống trị của luật pháp, hệ thống tài chính, và chính sách ngoại giao thiết lập bởi giới quý tộc ngay lập tức đưa đến sự oán giận của tầng lớp bình dân. Từ lúc bắt đầu năm 509 trước CN cho đến lúc tan rã trong tay Caesar vào giữa thế kỷ thứ nhất trước CN, lịch sử chính trị của Cộng hòa La Mã là 1 mớ hỗn độn, và thường xuyên xung đột giữa hai tầng lớp dân chúng muốn tranh giành quyền lực chính trị.

Năm 494 trước CN, những người lao động rời khỏi La Mã và chiếm 1 vùng núi thiêng. Tại đây, họ thành lập 1 chính phủ mới, 1 tổ chức có hình thức bộ lạc kiểu cũ, đứng đầu là các quan bảo mẫu (những người lãnh đạo bộ tộc của họ). Họ công khai phủ quyết các quyết định của giới quan chức La Mã và luật pháp của Viện nguyên lão. Chính phủ này do tất cả bầu ra và các quyết định của nó áp dụng cho mọi đối tượng là dân nghèo. Nói cách khác, dân nghèo đã tự giành cho họ quyền viết ra luật pháp cho riêng mình. Năm 450 trước CN, phong trào đấu tranh giai cấp đưa ra bộ luật 12 điểm với việc chính thức hóa luật lệ và hiến pháp La Mã. Người La Mã xem đây là 1 chiến thắng của việc đấu tranh đòi quyền công dân, nó là công cụ giúp họ xác định vị trí của mình trong xã hội pháp quy. Năm 445 trước CN, giới bình dân giành được quyền lập gia đình với người trong giới quý tộc, và đến năm 367 trước CN, 1 người thuộc giới bình dân được bầu làm quan chấp chính. Bộ luật Licinian-Sextian quy định ít nhất 1 trong 2 quan chấp chính phải là người thuộc giới bình dân. Với việc sau khi hoàn thành nhiệm kỳ chấp chính, vị quan này trở thành thành viên của Viện nguyên lão, quyền nắm giữ Viện nguyên lão của giới quý tộc đã bị phá vỡ. Đến năm 300 trước CN, giới bình dân có quyền tham gia ở tất cả mọi cấp của giáo hội, có nghĩa là ngang hàng với giới quý tộc về tín ngưỡng. Và cuối cùng, chiến thắng quyết định về mặt quyền lực và sự ảnh hưởng đến vào năm 287 trước CN, năm mà các quyết định và luật pháp của chính phủ bình dân được áp dụng cho toàn bộ cộng đồng La Mã, bao gồm cả giới quý tộc. La Mã đã đạt được những cải cách này mà không cần bất kỳ 1 cuộc nội chiến hay đổ máu nào. Tất nhiên, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn không thể giải quyết nhưng rõ ràng là nội chiến giai cấp đã được ngăn chặn hoàn toàn. Như vậy, người La Mã đã cải cách thể chế của mình như 1 nhu cầu tự phát hơn là vì theo đuổi 1 kế hoạch cụ thể nào.

Cùng thời gian này, và với tính chất tự phát tương tự, họ tiến hành mở rộng lãnh thổ của mình. Thoạt đầu, các cuộc chiến do những người cộng hòa tiến hành chủ yếu có tính chất phòng ngự vì việc lật đổ vương triều Tarquins đã dẫn đến nhiều cuộc tấn công của người Etruscans và các đồng minh nhằm vào La Mã. Nhưng không lâu sau đó, La Mã chuyển sang việc tấn công giành quyền kiểm soát lãnh thổ của những người láng giềng nhằm triệt tiêu hiểm họa bị tấn công. Logic của La Mã là việc kiểm soát các lãnh thổ chung quanh sẽ ngăn ngừa được bất cứ cuộc tấn công nào từ cư dân trên các lãnh thổ này đồng thời tạo ra 1 vùng đệm an toàn cho La Mã với những kẻ tấn công đến từ xa. Chính sách xâm lược của La Mã bởi vậy tiếp tục được duy trì vì lý do an toàn của bản thân họ. Kết quả cuối cùng của quá trình này là việc giành quyền kiểm soát toàn bộ bán đảo Italia năm 265 trước CN, và sau đó là cả thế giới. Có thể nói rằng đế chế La Mã là 1 sự ngẫu nhiên, nó được hình thành trong quá trình theo đuổi 1 chính sách có tên: sự an toàn. Chỉ đến giai đoạn cuối của quá trình này, Đế chế La Mã mới trở thành 1 mục tiêu rõ ràng.
 
Chinh phục Italy

Cuộc chinh phục Italy được bắt đầu ngay sau khi người La Mã trục xuất vương triều Tarquins năm 509 trước CN với mục tiêu đầu tiên chính là lãnh thổ của người Etruscans. Liên minh với các tộc Latinh khác và với Hy Lạp, La Mã từng bước vững chắc chinh phục lãnh thổ Etruscans trong suốt 2 thế kỷ 5 và 4 trước CN. Người Etruscans bị đuổi ra khỏi bán đảo Italy. Nền văn minh Etruscans đến đây chấm dứt.

Tuy nhiên, cuộc chinh phục Italy của người La Mã bất ngờ bị gián đoạn bởi cuộc xâm lược của bộ tộc Gaul (phần đất châu âu cổ gồm Pháp, bắc Hà Lan và 1 phần Thụy Sĩ), du cư và thiện chiến đến từ bên kia dãy Alps. Năm 387 trước CN, người Gaul vượt dãy Alps, nhanh chóng đánh bại quân đội và thiêu hủy La Mã. Tuy nhiên, người Gaul không có ý định định cư tại Italy, họ chỉ quan tâm đến của cải của La Mã. Họ cướp phá La Mã, yêu cầu cống nạp, và sau khi đã thu thập đủ thì quay về đất của họ ở trung tâm châu Âu. La Mã lúc này suy kiệt và nhiều cư dân họ đã chinh phục trên bán đảo Italy quay lại tấn công họ. Tuy nhiên, đến năm 350 trước CN, La Mã đã hồi phục mạnh mẽ đủ để lập lại vị thế ở các vùng đất nói trên.

Dù chỉ là 1 thành viên trong liên minh các nước Latinh, La Mã đã áp đặt vị thế bá chủ lên tất cả các nước trong liên minh này. Năm 340, các nước nổi dậy đòi quyền độc lập sau khi La Mã khước từ yêu sách của họ. Tuy nhiên, La Mã chỉ mất có 2 năm để dẹp tan cuộc nổi dậy này và thống nhất khối Latinh năm 338 trước cn. Năm 295 trước cn, La Mã bắt đầu cuộc chiến chống lại sự nổi loạn của những người Latinh Samnites sống trên dãy Appenine, có thêm sự tham gia của những người Etruscans, người Gaul sót lại và 1 vài thành phố Italy khác. Kết quả của cuộc chiến này là đến năm 280 trước cn, La Mã giành quyền kiểm soát toàn bộ trung tâm Italy. Họ chuyển sự quan tâm của mình về phía Nam bán đảo tới các thành phố của Hy Lạp và nhanh chóng khuất phục nốt khu vực này. Vậy là đến giữa thế kỷ 3 trước cn, La Mã đã hoàn toàn làm chủ bán đảo Italia.

Lịch sử cổ đại cho thấy rằng việc giữ các vùng đất chinh phục được là rất khó khăn. Tuy nhiên, La Mã dường như đã tìm ra cách giải quyết vấn đề này với các chính sách vừa tự do vừa quân phiệt. Thứ nhất, Rome không hủy diệt các vùng đất này mà trao cho chúng những quyền lực chắc chắn. Một số nơi được chấp thuận trở thành công dân La Mã đặc biệt là các vùng gần La Mã, một số vùng khác được chấp nhận chỉ phải theo những luật nào đó của La Mã. Một số vùng được cho phép trở thành khu tự trị, một số khác được cho phép trở thành đồng minh. Nhưng tất cả đều phải đóng thuế và cung cấp binh lính cho La Mã. Ngoài ra, La Mã cho quân lính định cư trên các miền đất chiếm đóng như là phần thưởng cho sự phục vụ của họ. Quân lính có đất đai có thể sinh lợi, và La Mã có đội quân cố định trên các miền đất đã chiếm đóng. Để tăng cường sức mạnh cho các đội quân này, La Mã tiến hành các dự án làm đường đầy tham vọng. Họ xd các con đường thẳng tắp vượt qua các ngọn núi cho phép quân đội nhanh chóng vận động tới các vùng có nổi loạn. Sự kết hợp của việc trao quyền hành và quyền công dân với việc đảm bảo những phản ứng nhanh chóng và khắt khe đối với những kẻ nổi loạn đã cho ra đời 1 đế chế hòa bình và bền vững trên bán đảo Italy.

Đến lúc này xuất hiện Carthage, một kẻ thù mới đã khẳng định vị thế ở phía nam Địa Trung Hải. Thế kỷ sau sẽ chứng kiến sự va chạm của hai quốc gia hùng mạnh này. Kết cuộc của những va chạm này: chiến tranh Punic sẽ đưa La Mã thành lực lượng hùng mạnh nhất Địa Trung Hải.
 
Chiến tranh Punic

Lực lượng hải quân hùng mạnh nhất trên Địa Trung Hải trong thế kỷ 3 trước CN là Carthage, quốc gia phía bắc châu Phi gần Tuynidi ngày nay. Người Carthage là người gốc Phoenic và Carthage là 1 thuộc địa cũ của Phoenic từ thế kỷ 9 trước cn. Từ Carthage trong tiếng Phoenic có nghĩa là “thành phố mới”. Đến thế kỷ 6 trước cn, Phoenic bị chinh phục bởi người Assyrian (là những bộ lạc Semitic sống ở phía bắc Mesopotamia) và sau đó là người Ba Tư. Tuy nhiên Carthage lại không bị ảnh hưởng và trở thành 1 quốc gia độc lập hoàn toàn. Song song với cuộc chinh phục bán đảo Italy của La Mã, Carthage cũng mở rộng lãnh thổ của mình ra khắp Bắc Phi. Khi La Mã hoàn tất cuộc chinh phục Italy của mình thì Carthage cũng đã kiểm soát toàn bộ bờ biển Bắc Phi từ phía Tây Libya đến eo biển Gibraltar (bờ biển phía nam Tây Ban Nha), hầu hết bờ biển phía nam Tây Ban Nha cũng như các đảo Corsica và Sardinia ở Châu Âu. Carthage là 1 quyền lực kinh khủng, nó kiểm soát hầu hết các hoạt động giao thương trên Địa Trung Hải, cung cấp binh lính, nô lệ và hàng hóa, và tích trữ lượng lượng vàng bạc khổng lồ từ các mỏ khai thác ở Tây Ban Nha.

Hai đế chế hùng mạnh này bắt đầu va chạm nhau vào giữa thế kỷ 3 trước cn, khi quyền lực của La Mã đã vươn tới cực nam của Italy. Thực ra, hai bên đã có những tiếp xúc rời rạc trước đó nhưng chưa bên nào cảm thấy mối đe dọa đến từ bên kia. Người La Mã có hiểu biết kỹ lưỡng về người Carthage. Họ gọi những người này bằng cái tên gốc là người Phoenician. Trong tiếng Latinh, nó được viết là Poeni, đây là nguồn gốc cái tên Punic của cuộc chiến tranh sắp được nói tới. Cuộc chiến bất hạnh cho Carthage này là không thể tránh được. Nằm giữa Carthage và Italy là hòn đảo lớn Sicily. Carthage kiểm soát nửa phía tây của hòn đảo, nhưng với việc đã kiểm soát cực nam của bán đảo Italy thì La Mã chỉ còn cách Sicily 1 tầm tay. La Mã can thiệp vào cuộc nổi dậy của người Messana chống lại Carthage, và chiến tranh Punic lần 1 nổ ra.
 

Hỏi Phượt

Forum statistics

Threads
56,181
Bài viết
1,150,390
Members
189,941
Latest member
Thao10
Back
Top