Reporter
Phượt thủ
1. Sa Đéc - Xứ sở Người tình
Thị xã Sa Đéc tuy không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp, nhưng có lịch sử phát triển lâu đời hơn thành phố Cao Lãnh. Đây vốn thuộc vùng Tầm Phong Long thuộc nước Chân Lạp. Vào thế kỷ XVII-XVIII, Chân Lạp suy yếu và họ thường phải nhờ cậy đến Chúa Nguyễn trong các cuộc nội chiến cũng như chống người Xiêm. Đổi lại những lần "giúp đỡ" đó, Chân Lạp cắt những vùng đất mà họ để hoang hóa ở phía Đông Nam của Chân Lạp, mà theo họ đó không phải là đất tốt, nơi thì lũ lụt, nơi thì nhiễm mặn.
Năm 1757 vua Chân Lạp là Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận nhiếp chính xin cắt hai vùng Ba Thắc (nay là Bạc Liêu và Sóc Trăng) và Trà Vang (nay là Trà Vinh và Bến Tre) cho chúa Nguyễn để xin sắc phong là vua Chân Lạp. Ba Thắc và Trà Vang khi đó là vùng nhiễm mặn, lại nằm phía trong hai đất của Chúa Nguyễn là Định Tường (nay là Tiền Giang) và Long Hồ (nay là Vĩnh Long) nên từ lâu Chân Lạp không màng đến chủ quyền hai đất này.
Khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát còn chưa đồng ý thì Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh giết chết và cướp ngôi. Con của Nặc Nhuận là Nặc Tôn lại cầu xin Chúa Nguyễn giúp đỡ, lần này Chúa Nguyễn cho quân đánh dẹp Nặc Hinh và đưa Nặc Tôn về nước lên ngôi vua. Nặc Tôn không chỉ cắt hai đất Ba Thắc và Trà Vang mà còn cắt cả đất Tầm Phong Long, vùng đất trù phú nhất ở vùng này cho Chúa Nguyễn. Đất Tầm Phong Long được lập thành ba đạo: Châu Đốc, Tân Châu và Đông Khẩu (Sa Đéc ngày nay). Nhờ đó, đất của Chúa Nguyễn được nối liền một cõi, cơ bản hình thành diện mạo Nam bộ ngày nay.
Đông Khẩu Đạo vốn đã được người Việt và người Hoa vào khai phá từ trước, nhưng từ khi thuộc về Chúa Nguyễn mới phát triển mạnh mẽ. Trong vòng nửa sau thế kỷ XVIII, cộng đồng người Việt và người Hoa đã khai thác mọi tiềm năng và lợi thế vốn có biến vùng đất Tầm phong Long hoang vu, sình lầy, đầy những khó khăn trở ngại thành vùng đất trù phú.
Những năm cuối thế kỷ XVIII, một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của ngành thương mại làm thay đổi Nam bộ nói chung và Đông Khẩu Đạo nói riêng, đó là việc các thương nhân châu Âu tạo nên tuyến đường thủy Sài Gòn - Nam Vang - Băng Cốc. Đông Khẩu Đạo trở thành một thương cảng trên tuyến đường thủy này. Sau khi người Pháp chiếm Nam bộ, Đông Khẩu Đạo được người Pháp đặt tên là Sa Đéc, theo tên gọi dân gian ở cảng sông này. Sa Đéc có tên gọi nguyên gốc là Phsar Dek. Nhiều học giả cho là đây là tên gọi xuất phát từ tiếng Khmer là "chợ sắt", nhưng cố nhà văn Sơn Nam lại có quan điểm cho là Phsar Dek là tên một vị thủy thần Khmer.
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Sa Đéc là vùng sung túc nhất của phía Nam Sài Gòn. Vì thế, dấu ấn của Sa Đéc là những khu phố cổ, những ngôi nhà xưa được xây cất trong giai đoạn thịnh vượng nhất này. Căn nhà được cho là xưa nhất là nhà ông hương chủ Dược ở làng Tân Phú Đông, xây từ năm 1860, kiểu ba gian hai chái, ngoài ra còn những căn nhà cổ khác như nhà ông Dương Văn Nương, hiện là nhà thiếu nhi thị xã, nhà tiến sĩ Nguyễn Thành Giung, từng là phó viện trưởng viện Đại học Đông Dương trước cách mạng tháng Tám năm 1945, hiện nay là trụ sở Ủy ban nhân dân Phường 4, hay nhà ông đốc phủ Đảnh và nhà ông Cả Tánh ở khu phố cổ đường Trần Hưng Đạo bây giờ. Các căn nhà cổ Sa Đéc là những kiệt tác kiến trúc, kết hợp hài hòa giữa văn hóa Việt - Hoa và kiến trúc Pháp.
Nổi tiếng nhất trong những căn nhà cổ là nhà ông Huỳnh Thủy Lê, một Hoa kiều, là người tình của nữ văn sĩ người Pháp Marguerite Duras. Tiểu thuyết "L’amant" là cuốn tự truyện của bà Marguerite Duras về mối tình với ông Huỳnh Thủy Lê khi gia đình bà sinh sống tại Sa Đéc. Tiểu thuyết gây tiếng vang lớn và được dựng thành phim cùng tên, và từ đó, Sa Đéc có thêm một tên gọi trong giới văn hóa là "Xứ sở Người tình".
Sa Đéc cũng là nơi có trường dạy tiếng Quốc Ngữ khá sớm ở Nam bộ, đó là trường Sơ Học Pháp – Việt sau gọi là trường Nam tiểu học và trường Nữ Học đường do bà Maria Donnadieu làm Hiệu trưởng. Bà Donnadieu chính là mẹ của nữ văn sĩ Duras.
Sa Đéc còn là nơi phát sinh sân khấu cải lương Nam bộ. Năm 1915, ông Cả Tam ở làng Tân Khánh Đông đã lập gánh hát bội đầu tiên ở Sa Đéc. Đây là gánh hát ra đời khá sớm ở Nam bộ với tên “Thiền Tiện bang”, có cô đào Năm Sa Đéc. Sau đó, ông Đặng Thúc Liêng và ông Tư Thận đã sửa đổi kiểu hát bội thành "ca ra bộ", tiền thân của cải lương miền Nam.
Cảng Sa Đéc xưa
Nguồn: ST.
Bờ sông Sa Đéc năm 1900
Nguồn: ST.
Chợ Sa Đéc năm 1900
Nguồn: ST.
Bệnh viện Sa Đéc năm 1900
Nguồn: ST.
(còn tiếp)
Thị xã Sa Đéc tuy không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp, nhưng có lịch sử phát triển lâu đời hơn thành phố Cao Lãnh. Đây vốn thuộc vùng Tầm Phong Long thuộc nước Chân Lạp. Vào thế kỷ XVII-XVIII, Chân Lạp suy yếu và họ thường phải nhờ cậy đến Chúa Nguyễn trong các cuộc nội chiến cũng như chống người Xiêm. Đổi lại những lần "giúp đỡ" đó, Chân Lạp cắt những vùng đất mà họ để hoang hóa ở phía Đông Nam của Chân Lạp, mà theo họ đó không phải là đất tốt, nơi thì lũ lụt, nơi thì nhiễm mặn.
Năm 1757 vua Chân Lạp là Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận nhiếp chính xin cắt hai vùng Ba Thắc (nay là Bạc Liêu và Sóc Trăng) và Trà Vang (nay là Trà Vinh và Bến Tre) cho chúa Nguyễn để xin sắc phong là vua Chân Lạp. Ba Thắc và Trà Vang khi đó là vùng nhiễm mặn, lại nằm phía trong hai đất của Chúa Nguyễn là Định Tường (nay là Tiền Giang) và Long Hồ (nay là Vĩnh Long) nên từ lâu Chân Lạp không màng đến chủ quyền hai đất này.
Khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát còn chưa đồng ý thì Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh giết chết và cướp ngôi. Con của Nặc Nhuận là Nặc Tôn lại cầu xin Chúa Nguyễn giúp đỡ, lần này Chúa Nguyễn cho quân đánh dẹp Nặc Hinh và đưa Nặc Tôn về nước lên ngôi vua. Nặc Tôn không chỉ cắt hai đất Ba Thắc và Trà Vang mà còn cắt cả đất Tầm Phong Long, vùng đất trù phú nhất ở vùng này cho Chúa Nguyễn. Đất Tầm Phong Long được lập thành ba đạo: Châu Đốc, Tân Châu và Đông Khẩu (Sa Đéc ngày nay). Nhờ đó, đất của Chúa Nguyễn được nối liền một cõi, cơ bản hình thành diện mạo Nam bộ ngày nay.
Đông Khẩu Đạo vốn đã được người Việt và người Hoa vào khai phá từ trước, nhưng từ khi thuộc về Chúa Nguyễn mới phát triển mạnh mẽ. Trong vòng nửa sau thế kỷ XVIII, cộng đồng người Việt và người Hoa đã khai thác mọi tiềm năng và lợi thế vốn có biến vùng đất Tầm phong Long hoang vu, sình lầy, đầy những khó khăn trở ngại thành vùng đất trù phú.
Những năm cuối thế kỷ XVIII, một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của ngành thương mại làm thay đổi Nam bộ nói chung và Đông Khẩu Đạo nói riêng, đó là việc các thương nhân châu Âu tạo nên tuyến đường thủy Sài Gòn - Nam Vang - Băng Cốc. Đông Khẩu Đạo trở thành một thương cảng trên tuyến đường thủy này. Sau khi người Pháp chiếm Nam bộ, Đông Khẩu Đạo được người Pháp đặt tên là Sa Đéc, theo tên gọi dân gian ở cảng sông này. Sa Đéc có tên gọi nguyên gốc là Phsar Dek. Nhiều học giả cho là đây là tên gọi xuất phát từ tiếng Khmer là "chợ sắt", nhưng cố nhà văn Sơn Nam lại có quan điểm cho là Phsar Dek là tên một vị thủy thần Khmer.
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Sa Đéc là vùng sung túc nhất của phía Nam Sài Gòn. Vì thế, dấu ấn của Sa Đéc là những khu phố cổ, những ngôi nhà xưa được xây cất trong giai đoạn thịnh vượng nhất này. Căn nhà được cho là xưa nhất là nhà ông hương chủ Dược ở làng Tân Phú Đông, xây từ năm 1860, kiểu ba gian hai chái, ngoài ra còn những căn nhà cổ khác như nhà ông Dương Văn Nương, hiện là nhà thiếu nhi thị xã, nhà tiến sĩ Nguyễn Thành Giung, từng là phó viện trưởng viện Đại học Đông Dương trước cách mạng tháng Tám năm 1945, hiện nay là trụ sở Ủy ban nhân dân Phường 4, hay nhà ông đốc phủ Đảnh và nhà ông Cả Tánh ở khu phố cổ đường Trần Hưng Đạo bây giờ. Các căn nhà cổ Sa Đéc là những kiệt tác kiến trúc, kết hợp hài hòa giữa văn hóa Việt - Hoa và kiến trúc Pháp.
Nổi tiếng nhất trong những căn nhà cổ là nhà ông Huỳnh Thủy Lê, một Hoa kiều, là người tình của nữ văn sĩ người Pháp Marguerite Duras. Tiểu thuyết "L’amant" là cuốn tự truyện của bà Marguerite Duras về mối tình với ông Huỳnh Thủy Lê khi gia đình bà sinh sống tại Sa Đéc. Tiểu thuyết gây tiếng vang lớn và được dựng thành phim cùng tên, và từ đó, Sa Đéc có thêm một tên gọi trong giới văn hóa là "Xứ sở Người tình".
Sa Đéc cũng là nơi có trường dạy tiếng Quốc Ngữ khá sớm ở Nam bộ, đó là trường Sơ Học Pháp – Việt sau gọi là trường Nam tiểu học và trường Nữ Học đường do bà Maria Donnadieu làm Hiệu trưởng. Bà Donnadieu chính là mẹ của nữ văn sĩ Duras.
Sa Đéc còn là nơi phát sinh sân khấu cải lương Nam bộ. Năm 1915, ông Cả Tam ở làng Tân Khánh Đông đã lập gánh hát bội đầu tiên ở Sa Đéc. Đây là gánh hát ra đời khá sớm ở Nam bộ với tên “Thiền Tiện bang”, có cô đào Năm Sa Đéc. Sau đó, ông Đặng Thúc Liêng và ông Tư Thận đã sửa đổi kiểu hát bội thành "ca ra bộ", tiền thân của cải lương miền Nam.
Cảng Sa Đéc xưa
Nguồn: ST.
Bờ sông Sa Đéc năm 1900
Nguồn: ST.
Chợ Sa Đéc năm 1900
Nguồn: ST.
Bệnh viện Sa Đéc năm 1900
Nguồn: ST.
(còn tiếp)
Last edited by a moderator: