What's new

[Tổng hợp] Chùa đất Việt

Chùa Hòe Nhai, tòa Cửu Long với Thích Ca sơ sinh ở giữa. Bồ tát Phổ Hiền cưỡi voi, Văn Thù cưỡi sư tử ở hai bên. Phía sau là phật Dược Sư.



Điều khá đặc biệt của những pho tượng chùa Hòe Nhai là một số tượng Bồ tát và cả tượng Phật đều đầu trọc, giống các Tôn giả. Thường tượng Phật có tóc xoắn trên đầu, bồ tát đội mũ, nhưng ở đây đầu trọc cả.

Ngoài ra chùa cũng có bộ tượng kép "Vua đội Phật" nổi tiếng, mà sẽ nói sau.
 
Last edited:
Hôm nay rảnh lọ mọ vào đây chơi với bạn chitto. Chẳng là tớ chợt nhớ ra gần đây đi đình đi chùa bao giờ cũng thấy bia công đức to đùng. Đi quanh quẩn một lúc lại nhìn thấy mấy cái bàn, cái ghế ghi chữ to đùng là ông A bà B nào đó cung tiến hay công đức gì đó. Tớ thấy hơi phản cảm vụ này.

Hình như đạo Phật cũng có triết lý về vụ cho - nhận này thì phải. Bạn Chitto có rộng lòng bình giải cho tớ không?
beer.gif
 
Last edited by a moderator:
Vừa đi công tác 1 tuần, mới về nên giờ mới vào đọc bài bạn Greenline. Tớ có sở thích là viết cho đến ngọn nguồn, nên để hiểu sâu về cái bia công đức trong chùa, có lẽ phải tìm hiểu sâu xa về nguồn gốc của cái chùa.

Các tôn giáo lớn khác khác (Thiên Chúa, Hồi, Hindu...) tôn thờ 1 đấng Thần thánh (Chúa, Allah, Brahma - Vishnu - Shiva), nên lễ nghi thờ cúng vị Thần đó, cùng với nơi thờ tự là rất quan trọng, và đền thờ đi cùng với sự hình thành tôn giáo. Ngược lại, thuở sơ khai Phật giáo chưa phải là Tôn giáo như thấy ngày nay, không tôn thờ đấng nào, do đó cũng không có nơi thờ tự, hương khói gì hết. Chùa chưa có khi Phật giáo ra đời.

Phật chỉ đơn giản là vị Thầy giảng dạy một triết thuyết, lối sống mới, chứ không thờ phụng ai, và cũng không có phép thuật, thần thông gì cả. Các đệ tử và người tin theo sẽ nghe vị thầy đó giảng giải, nói chuyện. Và để tiện lợi cho người giảng cũng như người nghe, người theo, người tu tập, thì cần phải dựng những khu nhà để ngồi và nghỉ đêm. Những "tịnh xá" đầu tiên chỉ là những dãy lán nghỉ trong các khu vườn, dưới các gốc cây để tránh mưa rất đơn sơ (không được ở trong các tòa nhà lớn, sang trọng).

Cho đến khi Phật qua đời, các vua chia Xá Lị làm các phần đưa về các nước, và dựng lên các Stupa (Tháp) để gìn giữ Xá Lị đó, thì hình thức thờ cúng mới xuất hiện. Nhưng các Stupa vẫn chỉ là Stupa, không phải là Chùa.

Những đệ tử của Phật vẫn tiếp tục đi giảng đạo, và ở trong các lán trại. Nhưng sự thiếu vắng vị Thầy chung có lẽ gây hụt hẫng khá nhiều, và khiến nảy sinh nhu cầu lưu giữ hình ảnh vị Thầy đó, để khi nhìn vào người ta có thể tập trung tâm trí hướng vào con đường vị Thầy đó đã chỉ. Và do đó những hình ảnh Phật xuất hiện trong tranh vẽ, điêu khắc. Từ việc hướng tâm trí theo hình ảnh Phật đến việc thờ phụng hình ảnh đó không xa, nhất là với vùng đất vốn rất thịnh hành việc thờ cúng như Ấn Độ.

Thế là từ việc vốn không tôn thờ, phụng thờ cái gì hết, chỉ chú trọng việc hướng tâm, dần dà người ta đã biến Phật thành một kiểu Thần Tượng để thờ cúng. Và các ảnh tượng đó được để trang trọng trong những tòa nhà to lớn đẹp đẽ, mà xưa kia Phật không bao giờ bước chân vào.

Cái chùa theo nghĩa thờ cúng hình thành và ngày càng phát triển.
 
Last edited:
Lúc đầu, các Stupa thờ Phật và các tịnh xá dành cho các sư tu hành không ở cùng chỗ. Stupa ở trong kinh thành, còn tịnh xá phải ở chỗ vắng vẻ xa cách thành thị. Nhưng về sau thì quanh Stupa cũng thành các tu viện lớn. Chùa ngày nay bao gồm cả hai chức năng đó: Nơi thờ cúng Phật và nơi tu hành của các sư.

Để có các tịnh xá cho các sư tu hành, phải có đất. Mà Phật thì đồ ăn phải là đồ xin, đồ mặc phải là vải thừa người ta vứt đi (nguyên thủy là vải liệm người chết vứt đi), không được sở hữu tài sản. Thế thì lấy đâu ra đất làm tịnh xá? Cái sự Cho - Nhận đất đai bắt đầu từ đây.

Theo Phật giáo, thì người đầu tiên dâng cúng đất là vua của thành Vương Xá. Vị vua này đã tặng Phật và các đệ tử một mảnh đất rộng ngoài thành để làm nơi trú chân. Tiếp đó là một trưởng giả (Cấp Cô Độc) dâng tặng một khu vườn rất đẹp.

Cả hai khu vườn đó (và về sau nhiều khu đất khác), quyền sử dụng đều thuộc về Phật và đệ tử vĩnh viễn, nhưng quyền sở hữu vẫn trong tay vua và trưởng giả. Như thế là Phật vẫn không sở hữu của cải, chỉ nhận thiện nghiệp thông qua việc sử dụng chỗ đó làm nơi nghỉ thôi.

Còn tất nhiên về sau, để đảm bảo quyền sử dụng, nó dần phải gắn với quyền sở hữu. Và các sư cũng không còn du hành nữa, mà định cư tại các mảnh đất, dựng chùa làm nhà, có trong tay quyền sở hữu.

Ở Việt Nam xưa kia và cả bây giờ, đất chùa là đất Hương Hỏa, một khi còn có người thờ cúng thì không được xâm phạm.
 
Last edited:
Công đức ở chùa

Đọc trong sử Việt Nam, thường thấy Vua quan dâng đất làm chùa. Triều Lý là dựng chùa nhiều nhất, riêng bà Ỷ Lan dựng mới 100 ngôi chùa. Dân chúng không thể dựng mới chùa được, thường là đóng góp vào chùa dưới các hình thức.

Một trong những hình thức đóng góp vào chùa nhiều nhất dưới đời Lê - Nguyễn là đóng "Hậu". Những người giàu có tin Phật, nhưng không có con nối dõi, khi qua đời thường hiến tất cả đất đai, của cải cho chùa. Chùa sẽ làm tượng người đó (thường bằng đá) để ở đằng sau, trước chùa, hoặc ngay bên tường cạnh chùa, để hương khói thờ cúng, gọi là tượng Hậu.

Xưa kia nhà có con cháu thì chỉ đưa lên chùa làm lễ, chứ không để thờ trên chùa (vì thờ trên chùa chỉ dành cho người không có ai thờ cúng). Nhưng ngày nay thì hình thức đưa lên chùa, gọi là Ký Kị, hay thờ Vong lại rất thịnh hành.

Bên cạnh các tượng Hậu để thờ, thì những người có đóng góp công đức cũng được ghi tên vào các tấm bia Công đức. Về lý sâu xa thì khi công đức cho chùa, nhà chùa không phải "cảm ơn" gì hết, vì như thế là làm tiêu hết thiện nghiệp của người đóng góp. Thế nhưng đã vào cuộc sống thì không thể cứng nhắc thế được, phải ghi công đức thì người ta mới đóng góp tiếp chứ !!!


Một số bia ghi tên người đóng góp công đức, và ở giữa là một pho tượng Hậu. Hình thức tượng Hậu hình như chỉ có ở chùa miền Bắc. Miền trung và miền Nam bàn thờ Vong có nhiều, nhưng tượng hậu thì ít.

 
Last edited:
Về "Công đức" hiện nay ở các chùa, có hai hình thức:
  • Đóng góp bằng tiền, được ghi lại trong các sổ công đức, và có thể là các bia công đức.
  • Đóng góp bằng hiện vật: tượng, chuông, hoành phi câu đối, pháp khí...

Việc đóng góp bằng hiện vật có từ lâu rồi. Tuy nhiên những dòng chữ ghi tên người công đức viết bằng tiếng Hán trên các hoành phi câu đối, mọi người không biết nên cũng không quan tâm. Còn bây giờ thì phải viết bằng Quốc ngữ, nên thấy phản cảm; một câu đối chữ hán rõ to lại có mấy dòng: Gia đình bà X, ông Y, ở địa chỉ ABC cung tiến ngày DEF...

Thậm chí nơi làm cũng quảng cáo ngay trên đó. Như vừa rồi tớ vào chùa Vĩnh Nghiêm, thấy cái lư hương đồng cực to trước chùa, quanh miệng khắc tên cơ sở đúc, tên người bỏ tiền, nhưng địa chỉ ghi sai chính tả là "Xương Nguyệt Ánh" thay vì "Sương".

Bia hậu có khắc tượng hậu chùa La Phù

 
Last edited:
Công trình nghiên cứu của bác Chitto thật là công phu và chi tiết, điều này thật hiếm có trên các diễn đàn du lịch thông thường. Cách giải thích và dẫn luận cũng gần gũi và dễ hiểu. Điều này nhiều phật tử hay đôi khi một số sư tăng cũng không sâu sắc đến như vậy trong cách giảng giải và thuyết pháp. Hy vọng được đọc nhiều bài viết hay và tư liệu quý nữa.
Các thành viên cũng nên đóng góp bài viết và hình ảnh tiêu biểu và phù hợp để minh họa với bác Chitto nhé !
Xét về một khía cạnh nào đó thì khi các bạn Phượt cần những thông tin kiểu này thì chịu chết không thể tìm đâu ra.
Thật vô cùng quý giá!


(Xin đóng góp cái ảnh Vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc như bác Chitto nêu bài viết trên)

Ngày nay khi đạo Phật không còn trong giai đoạn cực thịnh xưa kia nữa thì khu vườn vẫn được giữ và sử dụng như một công viên







Các di tích còn lại: Kỳ Viên Tịnh Xá




Các giáo đoàn quốc tế vẫn thường xuyên tổ chức hành hương và truyền dạy giáo lý về việc làm phúc cúng dường tại vườn của ngài Cấp Cô Độc



 
Về "Công đức" hiện nay ở các chùa, có hai hình thức:
-
Về "Công đức" hiện nay ở các chùa, có hai hình thức:
  • Đóng góp bằng tiền, được ghi lại trong các sổ công đức, và có thể là các bia công đức.
  • Đóng góp bằng hiện vật: tượng, chuông, hoành phi câu đối, pháp khí...

Việc đóng góp bằng hiện vật có từ lâu rồi. Tuy nhiên những dòng chữ ghi tên người công đức viết bằng tiếng Hán trên các hoành phi câu đối, mọi người không biết nên cũng không quan tâm. Còn bây giờ thì phải viết bằng Quốc ngữ, nên thấy phản cảm; một câu đối chữ hán rõ to lại có mấy dòng: Gia đình bà X, ông Y, ở địa chỉ ABC cung tiến ngày DEF...

Tớ thì quan niệm công đức là ở cái tâm, hay nói nôm na là lòng thành. Chuyện cung tiến hay công đức ghi tên thì thôi tuỳ người. Nhưng nói thật vào chùa nhìn mấy cái bia công đức to đùng, rồi thấy Phật thì ít mà thấy tên người A, B, C thì nhiều. Ô hay, thế hoá ra chúng ta đang người nọ vái tên người kia à? Chưa kể chuyện bây giờ chùa chiền nhiều nơi đua nhau xây to, hoành tráng, sơn son thiếp vàng xa hoa bóng bảy. Chưa nói chuyện cái sự cố gắng tô vẽ đấy làm cho cảnh quan nó giả tạo thì cái không khí cổ kính, trang nghiêm đã mất đi ít nhiều. Chưa kể bà con vào chùa thì cầu này khấn nọ rất hoành tráng. Dường như bây giờ nhiều nơi Phật cũng thành một cái gì đó giống như thần hay thánh gì đó rồi.
sad.gif
Nhưng cũng may còn mấy chùa kiểu Thiền viện Trúc lâm giữ được sự tôn kính trang nghiêm. Mặc dù tớ vào đó cũng hơi cảm thấy xa lạ. Có lẽ do sư thầy miền Nam hoặc chịu ảnh hưởng của nơi khác nó vậy .
 
Last edited by a moderator:
Về vấn đề mà Greenline đưa ra, thì thực sự nó quá rộng, quá lớn, quá phức tạp và liên quan đến quá nhiều vấn đề khác, là sự thay đổi của cả một hệ thống xã hội với những thay đổi trong giá trị của nó, liên quan đến những yếu tố Phật giáo miền Bắc, miền Nam, miền Trung từ trong quá khứ hàng trăm năm, quá khứ vài chục năm, quá khứ mười năm nay, cũng như các chính sách của thể chế chính trị, sự đảo lộn của các giá trị truyền thống...

Bởi đâu chỉ có Chùa thay đổi, toàn bộ xã hội đã và đang thay đổi, vì lẽ gì chùa lại không được thay đổi?

Để nhận định được sơ bộ về cái gọi là "Phật cũng thành một cái gì đó giống như thần hay thánh gì đó rồi" có lẽ cả một luận án Tiến sĩ cũng chưa đủ. Vì thế tớ thấy tớ không đủ sức để có thể bàn đến nó.

Trong topic này của tớ, hầu như tớ chỉ tập trung vào những giá trị được hình thành và phát triển từ cách đây ít nhất là khoảng trăm năm. Do đó các hình ảnh hầu hết là các ngôi chùa cổ, tượng cổ. Và cũng vì vậy chủ yếu là ảnh chùa ở miền Bắc, nơi có những chùa cổ hàng trăm năm, dù rằng ảnh chùa miền Trung, miền Nam tớ cũng có một số. Những sự biến đổi, thay đổi trong vòng ba chục năm gần đây sẽ rất khó nắm bắt và bình luận chính xác.
 
Last edited:
Cho tớ hỏi chen ngang.
stupa và pagoda khác nhau ở điểm nào? người ta hay dịch stupa là Tháp, pagoda là Chùa, để phân biệt với temples thường được dịch là đền, nhưng tớ thấy có mấy việc.
Một là khách nước ngoài, nhất là khách Mỹ, rất hay gọi Chùa là Buddist temples. Có người phân tích tỷ mỷ rằng nguồn gốc chữ pagoda là do đâu. Tớ không nắm bắt được hết, nhưng tớ nghĩ dịch Chùa là pagoda đúng là một cách dịch thô, từ chữ sang chữ, kiểu như mình gọi Văn miếu là Temple of Literature, lâu rồi thành quen nên cứ dùng chứ không lột tả hết được ý nghĩa.
Hai là có một bà chị, đi Indonesia về xong bảo Pagoda là tháp chùa, và ở trong các chùa bên Indo người ta dùng để chỉ các tháp đưa hài cốt phật tử vào hoả táng.

Hình như còn có tài liệu nói Pagoda nguyên trong tiếng phạn là một cái vòm ...
sad.gif

:(
 
Last edited by a moderator:

Hỏi Phượt

Forum statistics

Threads
56,485
Bài viết
1,153,187
Members
190,103
Latest member
Penguin1
Back
Top