What's new

[Chia sẻ] Trong gió cát sa mạc Gobi

Chào cả nhà: Thấy nhà vắng vẻ quá, thôi thì để bớt hiu quạnh, Châu bá thông tui làm con bò, "ợ" ra nhai lại chuyến đi cũ (năm 2005) chia sẻ với mọi người.

Bài : Đường đến “thế giới cát”…

Những câu chuyện về những đoàn lạc đà đi ngang qua hoang mạc cát mênh mông, cuộc sống của những người du mục Mông Cổ sinh ra giữa sa mạc, sống trong lều, uống sữa ngựa, vừa cưỡi ngựa vừa bắn cung tên... một thời đã làm tôi mê mẩn và tưởng chừng như chỉ được biết qua sách báo, phim ảnh.
Vậy mà bây giờ tôi đang cưỡi lưng lạc đà trên sa mạc lớn thứ hai trên thế giới - sa mạc Gobi...


Sa mạc Gobi
untitled.jpg


Cửa ngõ sa mạc
Đất nước Trung Hoa thật bao la, phải đến chuyến “giang hồ” thứ ba tôi mới dám vạch ra cho mình một chặng hành trình dài 5.000 km để chinh phục sa mạc Gobi.

Từ Sài Gòn bay ra Hà Nội, tôi chọn phương tiện tàu liên vận quốc tế để sang Nam Ninh (Trung Quốc) và từ đó trực chỉ thành phố Lan Châu, theo tư liệu là một trong những cửa ngõ để vào sa mạc Gobi. Ông giám đốc công ty du lịch tại Lan Châu cứ hỏi đi hỏi lại về ý định vào sa mạc Gobi thuộc khu tự trị Nội Mông, xong ông lắc đầu: “Cực kỳ khó khăn và nguy hiểm, hầu như chưa có du khách nào đi từ Lan Châu vào sa mạc cả. Nếu các anh muốn biết sa mạc thì nên đến Đôn Hoàng đi, cũng có sa mạc, du lịch lại phát triển nữa”.

Vốn đã quá dị ứng với những chuyến đi gọi là “du lịch” nên tôi cương quyết chọn Lan Châu - thủ phủ tỉnh Cam Túc (cách Hà Nội 2.500km) - làm điểm xuất phát. Thấy không thuyết phục được chúng tôi, ông giám đốc du lịch thở dài va dặn dò: “Nếu đi như thế thì nên tìm một “bảo tiêu” địa phương đi theo vì rất nguy hiểm. Sa mạc là nơi luật pháp khó vươn tay đến được”.

Bản đồ hành trình
MAPGOBI.jpg


Vừa rời thành phố Lan Châu chừng vài chục cây số đã thấy hàng cây xanh mướt bên đường dần biến mất, thay vào đó là những đụn cát khổng lồ cao cả trăm mét, anh lái xe cười bảo: “Chưa ăn thua gì đâu, còn xa lắm, đây chỉ mới là rìa sa mạc thôi, đi sâu vào bên trong có những đụn cát cao cả ngàn mét, khủng khiếp lắm!”.

Thật xứng danh tên gọi “thế giới cát”, màu cát nhờ nhờ phủ khắp mọi nơi: những căn nhà bằng cát, đất; những túp lều, con đường, thậm chí cả gió đều... đầy cát. Những hạt cát li ti bay lẫn trong không khí, lọt đầy vào áo quần, kẽ mắt, miệng. Cát tạo thành những đợt sóng nối tiếp “đuổi” nhau trên mặt đường.Trên tuyến đường cao tốc chúng tôi đi thỉnh thoảng lại bắt gặp một trạm thu phí... dọn cát! Không có dịch vụ dọn cát thì chỉ một ngày là cát lấp hẳn con đường. Gió thổi mạnh nhưng chẳng làm dịu được chút nào cái nóng hừng hực như muốn lột da. Phía đằng xa, trên triền cát, thấp thoáng vài con lạc đà đang đủng đỉnh gặm cỏ khô...

Mãi gần 1 giờ sáng ngày thứ tư của cuộc hành trình chúng tôi mới đến được Trung Vệ (phía tây khu tự trị Nội Mông, Trung Quốc), nơi xuất phát của chuyến “thám hiểm” đi sâu vào lòng sa mạc. Gần sáng mà trời nóng hầm hập, mồ hôi ra nhớp cả người. Tìm được căn phòng trọ tồi tàn, bẩn thỉu, bà chủ nhà trọ phát cho chúng tôi một xấp giấy vệ sinh kèm lời dặn: “Xài nước ít thôi”. Chúng tôi nghe đã thấy rã rời, nhưng thôi, có chỗ ngả lưng là tốt rồi, ngày mai là cả một chặng đường dài. Anh Kim Sơn - bạn đồng hành - vừa nói: “Ngủ sớm lấy sức vào sa mạc” là lăn ra ngáy khò khò!

Sơn "Trung Quốc" (ngồi ở giữa-đừng lộn)-bạn song hành thân thiết và duy nhất của tôi trong những chuyến rong ruổi tại Trung Quốc
tronggiocatsamac31.jpg


Ngủ được vài tiếng, cả hai chúng tôi dậy sớm để chuẩn bị chuyến băng qua sa mạc bằng lạc đà. Nhiều người dân địa phương bảo với chúng tôi rằng nơi gần nhất để có thể đến được là thảo nguyên Thông Hồ, từ đây đến đó cũng mất hơn bảy tiếng cưỡi lạc đà, giữa đường tuyệt đối không có dân cư. Nhiều người can ngăn vì đang là mùa có bão cát, nếu trên đường gặp bão thì xem như không còn cơ hội để trở ra! Nghe hơi sợ nhưng chúng tôi đã quyết định rồi!

Tôi vác chiếc balô nặng hơn 20kg bò lên đụn cát cao gần 100m, trước mắt là một biển cát mênh mông, không thể nhìn thấy đường chân trời. Tạt vào một trại của người Mông, chúng tôi tìm thuê lạc đà. Ông chủ nhanh chóng ra giá 600 tệ (khoảng 1,2 triệu đồng tiền VN) cho cả ba con lạc đà cùng với một người dẫn đường. Nhẩm đi nhẩm lại thấy cũng rẻ, chúng tôi thuê ngay.
Tiểu Trương - tên người dẫn đường - năm nay 25 tuổi và cũng gần ngần ấy năm... cưỡi lạc đà vì anh là dân Mông Cổ chính tông, sinh ra tại sa mạc và được nuôi lớn bằng sữa ngựa. Tiểu Trương khá e ngại khi biết chúng tôi muốn đi ngay: “Sợ không kịp đến thảo nguyên Thông Hồ trước khi trời tối, nhưng thôi các anh chỉ có 15 phút để chuẩn bị lên đường, nếu không muốn ngủ lại đêm giữa sa mạc”.

Trại lạc đà
samacbai1c.jpg


Ở Sài Gòn khi nhiệt độ lên đến 37 - 38 độ C là tôi đã thấy chịu không nổi, giờ đứng giữa sa mạc Gobi, nhiệt kế vượt quá con số 40 độ C - nắng nóng kinh hoàng! Tiểu Trương cười ra vẻ khoái trá khi chúng tôi than nóng: “Mát lắm rồi đấy. Mấy ngày trước còn lên đến 45 - 50 độ C nữa kìa !”.

Ngô Thừa Ân khi viết chuyện Đường Tăng trên đường đi thỉnh kinh phải mượn quạt Ba Tiêu của Thiết Phiến công chúa khi qua Hỏa Diệm Sơn, “lửa bốc ngùn ngụt 800 dặm, chung quanh không một ngọn cỏ, bốn mùa nóng bức…” có lẽ quá đúng với hoàn cảnh chúng tôi bây giờ.
Chưa hết, khi hỏi Tiểu Trương vì sao giá thuê lạc đà quá rẻ, anh thật thà cho biết: “Có ai thuê đâu, ai cũng muốn trốn chạy khỏi cái nóng thiêu đốt trong sa mạc, vậy mà các anh lại thuê lạc đà vào đó, có khùng mới không cho thuê!”.

Câu chuyện trên lưng lạc đà
Đoàn lạc đà lên đường! Lúc xuất phát, vì chủ quan thấy Tiểu Trương không dặn dò mua sắm thêm trang bị gì nên tôi cũng không nghĩ đến. Trong balô đầy đủ những thứ cho một chuyến bụi đời gió bụi, nhưng lại thiếu mất hai thứ tối cần thiết cho hành trình băng qua sa mạc: khăn choàng, giày cao cổ! Gió thổi càng lúc càng mạnh.

Lên đường
samacbai1j.jpg


Cát vàng bay mù mịt bắn tung vào mặt, tay, cổ, đau rát như bị kim châm. Chúng tôi phải rạp cả mình lên lưng lạc đà để tránh gió cát, vậy mà hai mắt phải căng ra nhìn hướng đi. Con lạc đà của Tiểu Trương đi trước có mấy bước mà nhiều khi tôi chỉ nhìn thấy lờ mờ qua màn cát trắng xóa.
Chúng tôi hội ý để tránh tình trạng xấu nhất: lạc giữa sa mạc. Tiểu Trương dừng lại xỏ mũi cột thật chặt ba con lạc đà lại với nhau, khoảng cách đủ gần để khỏi đi lạc. Tiểu Trương hơi lo lắng: “Gặp bão cát thì mệt đấy. Hi vọng đêm nay chúng ta tới được Thông Hồ”.

Tiểu Trương kể anh đã nhiều lần bị lạc và gặp bão cát trong sa mạc. Những người can đảm nhất cũng không nên nghĩ chuyện đương đầu với nó, phương thức thoát hiểm duy nhất là nhanh chóng quay lưng về hướng gió và phải thật nhanh đào cho mình một “cái hang” trên cát, trùm khăn kín cả người và chui xuống đó chờ bão cát qua rồi tìm cách đào cát chui lên... Giữa trưa hè nắng như thiêu đốt, vậy mà câu chuyện của Tiểu Trương làm tôi lạnh xương sống!

samacbai1e.jpg


Cát nối tiếp cát. Đồi nối tiếp đồi. Dù đã đeo kính mát nhưng đôi mắt tôi vẫn bị rát bỏng và nặng như chì vì những hạt cát li ti bay vào…Gió rít từng cơn nghe rất khủng khiếp, và bàng hoàng hơn khi tôi nghe như có tiếng hát, lúc lại nghe như tiếng trống, tiếng réo rắt của nhiều thứ nhạc khí...

“...Anh ta nghe thấy những tiếng nói trên sa mạc giống giọng người bạn đồng hành nói chuyện với anh, có khi còn kêu tên anh nữa… Đôi khi giữa đêm khuya đoàn lữ hành bỗng nghe tiếng lanh canh nhộn nhịp như tiếng của cả một đoàn người, ngựa và lạc đà di chuyển trong đêm tối, nếu người lữ hành tưởng đó là tiếng động của chính đoàn người đang đồng hành với họ và yên tâm đi theo cho đến khi khám phá rằng mình đã bị những tiếng động ma quái ấy phỉnh gạt. Nhiều khách lữ hành đã bị lạc đường và bỏ mạng giữa sa mạc vì những tiếng động kỳ lạ ấy…”, đoạn ghi chép trong Những cuộc du hành của nhà thám hiểm lừng danh Marco Polo từ thế kỷ 13 khi tiến vào sa mạc Gobi như đang sống dậy trong tôi.

Tôi đã nghe thấy thứ âm thanh kỳ lạ đến rợn người đó giữa trưa hè của thế kỷ 21!...

Tiểu Trương
tieutruong.jpg


Thông tin tham khảo:
Marco Polo không phải là người Châu Âu đầu tiên đặt chân đến sa mạc Gobi này (năm 1275). Mới đây, người ta đã đào được hàng trăm xác ướp còn nguyên vẹn của những gia đình người da trắng cách đây hơn 1000 năm. Với kĩ thuật ướp xác tuyệt hảo cộng với khí hậu nóng khô của sa mạc nên những xác ướp này hầu như còn nguyên vẹn cả mặt mũi, tóc tai…”.

Nhiệt độ sa mạc ban ngày có thể lên đến 55 độ C trong bóng râm còn ban đêm có thể lạnh xuống mức gần đóng băng. Sau sa mạc Sahara, Gobi là sa mạc có diện tích lớn thứ hai trên thế giới : 1,3 triệu km2 (gấp bốn lần nước Việt Nam), trải dài từ Đông sang Tây khỏang 1600km nằm trên Mông Cổ và Trung Quốc (khu tự trị Nội Mông).

Tại đây, các nhà nghiên cứu đã tìm được một trong những tàn tích hóa thạch của các động vật cổ đại thuộc loại lớn nhất trên thế giới. Từ đó, họ có thể xác định được bức tranh toàn thể về sự tiến hóa của loài động vật có vú, cũng như về quá trình sinh sản của loài khủng long, cung cấp các chứng cứ cho việc hoàn thiện thêm về cây tiến hóa, bổ sung các nhánh và cơ sở để dẫn đến việc xuất hiện loài người”.
 
Last edited:
Bài 4: Lời nguyền của Khara Bator

Trên chuyến tàu liên vận quốc tế từ Hà Nội đi Trung Quốc, tôi nằm cùng toa với hai du khách người Mỹ sang Trung Quốc du lịch. Anh chàng Thomas Sullivan vui nhộn và biết khá nhiều thông tin về đất nước Trung Hoa cho dù chưa từng một lần đến đó.

Truyền thuyết Hắc thành
Thomas rất quan tâm khi biết tôi sẽ đi sa mạc Gobi: “Có đi Hắc thành không?”. Tôi lắc đầu. Thomas tỏ ra thành thạo: “Nên đến, nhiều điều bí ẩn lắm!”, rồi anh kể cho tôi nghe truyền thuyết về sự bí ẩn này:Khara Bator là một vị vua Mông Cổ kiêu hùng, từng xua quân chinh phạt khắp hoang mạc Gobi và cho xây dựng một thành phố đồ sộ với cư dân sầm uất giữa một ốc đảo với tên gọi là “Hắc thành”.

Năm 1372, quân của Khara Bator bị quân Minh bao vây giữa sa mạc, quân Minh muốn tiêu diệt thành nên cho xây con đập ngăn nước không cho dòng sông Đen chảy vào thành. Để tìm nguồn nước, Khara Bator cho đào một cái giếng sâu gần 300m nhưng vẫn không tìm thấy nước. Hắc thành chết dần chết mòn trong cơn khát giữa ốc đảo.

Khara Bator quyết định mở đường máu sau khi cho chôn giấu tất cả vàng bạc châu báu xuống chiếc giếng sâu 300m rồi lấp lại. Vị hoàng đế sa mạc đưa ra lời nguyền: ai xâm phạm Hắc thành và kho báu của nhà vua sẽ chết khô như người đi lạc giữa sa mạc...

Khara Bator xua quân ra cổng thành tử chiến với quân Minh, lực lượng yếu dần, khi lưỡi đao của kẻ thù sắp hạ xuống đầu, bất chợt ông thét lên một tiếng, ngay lập tức hàng ngàn quân Minh bỗng lăn ra, khô quắt người lại biến thành những bộ xương phủ trắng cả thành. Bão cát nổi lên mù mịt chôn vùi cả thành phố và làng mạc xung quanh nó. Hắc thành biến mất khỏi sa mạc mênh mông... Lời nguyền của vị vua đã linh nghiệm.


Tôi hỏi Thomas: “Vậy Hắc thành nằm ở đâu?”. Thomas lắc đầu nhún vai: “Không thể biết, vì câu chuyện trên tôi biết được qua... sách! Chỉ biết nó nằm trong sa mạc Gobi thôi”. Trời ạ, sa mạc Gobi rộng hàng triệu kilômet vuông, biết đâu mà tìm! Khi đến Lan Châu - thủ phủ tỉnh Cam Túc, nơi có cửa ngõ vào Gobi, tôi cố dò tìm nhiều người để hỏi thăm về địa danh Hắc thành, nhưng ai cũng bảo: “Vâng, có nghe một truyền thuyết như thế nhưng không biết nằm ở đâu!”.

Tìm đến Phòng thực nghiệm sa mạc, nằm trên Đông Cương Tây lộ, một quan chức ở đây nhìn tôi từ đầu đến chân và vặn vẹo, kiểm tra giấy tờ đủ kiểu, cuối cùng ông phán một câu: “Anh phải có giấy giới thiệu của cơ quan tỉnh, chúng tôi mới cung cấp thông tin về Hắc thành”.

Tưởng đành phải từ bỏ ý định đi tìm lời nguyền của Khara Bator trong những ngày ở Gobi, vậy mà hôm lang thang trong sa mạc tại Alashan - khu tự trị Nội Mông, một chủ nhà trọ cho biết đó chính là Khara Khoto - di tích về nền văn minh sa mạc cổ nhất ở Gobi, nhưng cách đây khoảng 750km.
Chúng tôi vội leo lên chuyến xe buýt duy nhất mỗi ngày nối liền Alashan với Er Jina - cửa ngõ vào “Hắc thành”. Suốt con đường băng ngang sa mạc bão cát đùng đùng nổi lên mù trời, tôi đã chứng kiến đến mấy vụ tai nạn giao thông vì bão cát…

Trên đường vào Hắc thành
thitranErJina2.jpg


Câu chuyện người gác thành Khara Khoto

Er Jina là một thị trấn nghèo nằm sát với biên giới Mông Cổ. Thị trấn vắng người đến phát sợ, dân số chỉ vào khoảng 16.000 người.

Một người dân nơi đây cho tôi biết do nước thiếu trầm trọng nên cư dân đã dần bỏ đi hết, không chừng chỉ vài năm nữa thôi Er Jina sẽ trở thành “thị trấn không người”. Từ đây đến thành phố Đen còn khoảng 50km, nhưng cư dân Er Jina hầu như không bao giờ đặt chân đến vì sợ lời nguyền của tiên đế Khara Bator.

ErJina1.jpg


Chỉ có người nước ngoài hiếu kỳ ưa thích mạo hiểm hoặc những nhà khảo cổ vào tham quan và truy tìm di tích, kho báu... mới tìm đến Hắc thành. Khi tôi đến, di tích vĩ đại của nền văn minh sa mạc cổ chỉ có lèo tèo vài người viếng thăm. Cái cảm giác cô tịch, âm u len lỏi vào tâm trí tôi lúc nào không hay.

KHaraKhoto.jpg


Hắc thành bây giờ chỉ còn lại một pháo đài với bức tường thành hình chữ nhật cao 9m bao bọc xung quanh: cạnh đông - tây là 434m, cạnh nam - bắc 384m. Khi tôi định leo qua bức tường vào bên trong Hắc thành, một người cản lại: “Đừng vào! Nơi ấy linh hồn và ma quỉ trú ẩn, lời nguyền của Khara Bator vẫn còn đó...”.

Tôi quyết định leo vào. Bên trong tường thành này xưa kia từng là nơi ngự trị của vương quốc Mông Cổ hùng mạnh, nhưng hôm nay tất cả những gì còn lại chỉ là đống phế tích vỡ nát, rải rác là những mảnh sành, sứ bị vỡ lẫn trong cát, ngọn gió sa mạc vẫn âm u thổi như tiếng sáo đưa hồn u uất... Nhiều du khách phương Tây cũng theo bước leo vào, nhưng chỉ dăm bước chân là họ quay trở ra ngay...

4d.jpg


Chiều xuống, những người khách cuối cùng đã lục tục ra xe về lại thị trấn Er Jina. Tòa thành sừng sững giữa sa mạc trông cổ quái hơn. Tôi quyết định ở lại để thử trải qua cảm giác đêm sa mạc với Hắc thành. Ông già người Mông Cổ Amukulin - người gác thành Khara Khoto - cho chúng tôi tá túc trong túp lều của ông bên ngoài thành. Bên cạnh còn có túp lều của hai nhà nghiên cứu sa mạc người Canada, họ đã dựng lều ở đây hơn một tuần rồi.

KHaraKhoto1.jpg


Họ cho biết: “Nơi đây chính là một trong những trung tâm lớn nhất của dân du mục Mông Cổ giữa sa mạc trước đây. Những bí mật về kho báu của Khara Bator tưởng vĩnh viễn chôn vùi cùng những huyền thoại của nó cho đến năm 1909, Pyotr Kuzmich Kozlov - nhà nghiên cứu sa mạc người Nga - đã phát hiện một cái hầm nằm sâu trong lớp cát sa mạc chất đầy của cải và các sản phẩm nghệ thuật từ một thời đại xa xưa. Những bức họa, tác phẩm điêu khắc độc nhất vô nhị, những tượng Phật, đồ vật thờ cúng, hàng trăm bộ kinh Phật, những tác phẩm về y học, quân sự, pháp luật viết tay của người cổ xưa...

Qua hàng thế kỷ, trong thời tiết khắc nghiệt của sa mạc nhưng kho tàng vẫn không bị phá hỏng, màu sắc, đường nét hãy còn sắc sảo, tươi nguyên như mới vẽ. Chính những kiệt tác này đã hé mở nhiều bất ngờ về văn hóa tinh thần, cuộc sống dân sa mạc xưa. Người ta ước tính diện tích đã khai quật chỉ mới được 1/10 diện tích thật của Hắc thành, nên chắc hẳn còn nhiều bí ẩn bên dưới lớp cát sa mạc...”. Hai nhà nghiên cứu Canada từ chối bình luận về truyền thuyết lời nguyền của Khara Bator.

Dấu tích còn sót lại
4b-1.jpg


Ánh lửa bập bùng, bóng ngôi thành cổ trông thật ấn tượng, tôi bấm tay anh Kim Sơn, quyết làm một chuyến “thám hiểm” vào bên trong ngôi thành cổ. Hai chúng tôi như hai bóng ma lầm lũi trong đêm, lúc ở bên ngoài gió chỉ nhè nhẹ, nhưng không hiểu sao khi vào bên trong, tiếng gió lại rít lên từng hồi, thổi xoáy vào góc tường thành tạo ra những âm thanh u uất như tiếng khóc than, thút thít, thổn thức trong đêm... Phải chăng lời nguyền của vị tiên đế Mông Cổ là có thật?

Khi trở ra, ông lão gác thành Amakulin vẫn ngồi trầm ngâm trong lều, tôi lân la đến trò chuyện và kể cho ông nghe về tiếng khóc, tiếng than trong cổ thành. Amukulin cười khùng khục: “Ở đây chỉ có tôi thôi chứ ai đâu mà khóc với than. Đó là âm thanh của những hạt cát sa mạc khi gió nóng thổi xuyên qua làm chúng rung lên đồng loạt, tùy kích thước hạt cát mà chúng tạo ra nhiều loại âm thanh khác nhau...”.

Trong căn lều của người gác thành Amakulin
4e-1.jpg


Thế là tôi lại được biết thêm một bí mật của sa mạc. Đang cười nói bỗng Amukulin trầm ngâm: “Ở đây có ma thật đấy! Hồi xưa, khi lính nhà Minh tấn công, chúng đã tàn sát người Mông Cổ chúng tôi như giết súc vật. Xác người vô tội la liệt khắp nơi, những oan hồn đó luôn chập chờn trong sa mạc. Người gác thành trước đây là ông Zegong từng bị ma dẫn đi.
Lúc đó, đã khuya lắm rồi, ông Zegong bước ra khỏi lều thì thấy đống củi trước lều đang âm ỉ cháy bỗng bốc lên, bay lơ lửng trên bầu trời. Ông bước theo như bị thôi miên. Đi mãi, đi mãi vào sâu trong sa mạc cho đến một lúc đốm lửa chợt tắt, ông vụt bừng tỉnh và thấy mình đã bị lạc giữa sa mạc...”.


Quá nửa đêm, khi mọi người đã yên giấc, tôi bỗng nghe tiếng gõ đều đều vào túp lều, tôi nhìn lên: một bóng đen to lớn đứng bên ngoài thỉnh thoảng lại dùng tay đập vào túp lều! Tôi lạnh toát cả người: phải chăng Khara Bator đã trở về?... Sáng ra tôi kể lại câu chuyện đêm qua với Amakulin, ông lắng nghe rồi bước ra ngoài lều quan sát một hồi rồi cười lớn: “À, đó là bộ đồ của tôi treo ngoài lều. Gió thổi làm tay áo đập vào thôi mà”...
 
Last edited:
Mình cũng có dăm năm làm cho TT mà, văn phòng Hà Nội, chuyên làm thể thao và vài thứ linh tinh khác nữa, he he
 
Quả thật đợi anh post bài thì lâu quá nên chiều nay em quyết đinh đi tìm cuốn sách Dặm đường lang thang của anh nhưng tìm khắp các quầy sách ở Nguyễn Xí và Đinh Lễ đều không có, thất vọng vô cùng, ko biết bạn nào biết chỗ mua ko chỉ mình với. Mong anh Trau up bài tiếp nào
 
Quả thật đợi anh post bài thì lâu quá nên chiều nay em quyết đinh đi tìm cuốn sách Dặm đường lang thang của anh nhưng tìm khắp các quầy sách ở Nguyễn Xí và Đinh Lễ đều không có, thất vọng vô cùng, ko biết bạn nào biết chỗ mua ko chỉ mình với. Mong anh Trau up bài tiếp nào

Bạn làm tui cực khoái mấy lần :D. Thử liên lạc với NXB Trẻ hoặc mua online xem?
 
Bài 5: Đua lạc đà

Khi tôi đến được Alashan thì đã 4g chiều, trời nóng hầm hập. Tuyến xe buýt địa phương giá vé 1 tệ/chuyến (2.000 VND) chất đầy người, cười nói ríu rít như đi trẩy hội.
Mà họ đi hội thật, biết chúng tôi là khách lạ phương xa, anh tài xế quay lại nói: “Chiều nay có trận chung kết đua lạc đà vô cùng hấp dẫn. Sao không đi cùng chúng tôi đến đó, chưa xem đua lạc đà là chưa đến xứ sa mạc đấy…!”.


Lễ hội của “chiến thuyền trên sa mạc”
Nằm ở ngoại ô phía bắc, cách trung tâm thành phố khoảng 7km, trường đua Alashan là nơi duy nhất diễn ra các cuộc đua ngựa, lạc đà, lễ hội của địa phương - những lễ hội tập trung vào cuối thu và đầu xuân, lúc dân du mục và đàn lạc đà đã trở về sau cuộc viễn du hàng tháng trời tìm thức ăn sâu trong sa mạc, thảo nguyên.

Anh tài xế xe buýt hào hứng thuyết minh: “Một năm Alashan có sáu lễ hội lớn gồm nhiều tiết mục: múa, đấu vật, đua ngựa, bắn cung... trong đó đua lạc đà là phần hấp dẫn nhất. Đặc biệt, tất cả đều miễn phí. Tiền tổ chức, giải thưởng đều được địa phương đài thọ, thu hút sự tham gia đông đảo của dân du mục từ khắp mọi nơi đổ về”.

Trường đua Alashan
5b-1.jpg


Gần một tiếng nữa mới bắt đầu cuộc đua mà người Mông Cổ đã đến khá đông. Ai cũng muốn đến sớm kiếm một chỗ đứng sát đường biên để xem cuộc đua của những “chiến thuyền trên sa mạc”, từ mà dân Mông Cổ ví von về con lạc đà. Kẻ xô người đẩy không khác gì người VN chen chân nhau vào sân Mỹ Đình hay Thống Nhất xem tuyển VN đá với tuyển Thái Lan.

Nếu như đua lạc đà ở các nước Trung Đông qui mô và chuyên nghiệp với tiền thưởng cao ngất trời, mặc đồng phục, đội mũ bảo hiểm, thậm chí sử dụng cả robot để làm nài..., thì đua lạc đà ở sa mạc Gobi lại rất hoang sơ và hồn nhiên. Trước ngực nài lạc đà chỉ đeo miếng vải có đánh số, người đội nón kẻ để đầu trần, người mang giày kẻ chỉ mang đôi dép lẹp kẹp dưới chân, người quần tây áo sơmi trịnh trọng kẻ quần soóc áo thun. Mà các “tuyển thủ” thì...
Một anh choai choai lén mẹ dắt lạc đà đến đua “biểu diễn” lấy lòng bạn gái, một ông già buồn đời tham gia đua để nhớ lại một “thời oanh liệt”, qui định ở đây là bất kỳ ai cũng có thể đăng ký tham gia cuộc đua với một điều kiện duy nhất là phải có... lạc đà để cưỡi!

Chuẩn bị trước giờ xuất phát
5a.jpg


chuanbitruocgiodualacda1.jpg


Sau khi loại gần 30 tay đua, bốn con lạc đà xuất sắc nhất chuẩn bị bước vào vòng chung kết. Mọi hi vọng đều đổ dồn lên chú lạc đà do Mãn Đô Lạp,18 tuổi, người Mông Cổ chính gốc, cầm nài. Nổi máu nghề nghiệp, tôi xông vào phỏng vấn Mãn Đô Lạp, cậu chỉ mới tham gia đua lạc đà hai năm nhưng đã liên tiếp giành chức vô địch.

Lạp mặc áo sơmi bỏ ngoài quần, tóc khô vàng vì cháy nắng, đứng lọt thỏm bên con Thần Phong sừng sững, uy nghi như một chiến thuyền trước giờ xuất phát. Đối thủ của Lạp là hai trung niên người Hán đến từ một ngôi làng cách đó hơn 50 km và ông già Thường Sinh Bác, 60 tuổi, cũng là người Mông Cổ, cưỡi con Bão Cát. Ông già cao chỉ chừng 1,5m nhưng còn khá nhanh nhẹn. Bảy năm về trước, ông là người “bất khả chiến bại”, bẵng đi một thời gian dài không đua, bây giờ bất ngờ “tái xuất giang hồ”. Vòng chung kết chạy năm vòng đua dài khoảng 6km.

"Chiến thuyền" trên sa mạc
lacdataitruongduaAlashantruocgioxua.jpg


Phát súng hiệu vừa cất lên, bốn “chiến thuyền sa mạc” lao đi như tên bắn trong tiếng reo hò cuồng nhiệt của những người du mục. Những con vật khổng lồ này bình thường chậm chạp, lững thững thế mà bây giờ lướt gió không kém gì ngựa đua. Đủ loại âm thanh dâng trào theo guồng vó... lạc đà: tiếng la hét của khán giả, tiếng kèn trống, tiếng loa phóng thanh rè rè của ban tổ chức đang tường thuật trận đua... tạo nên không khí cực kỳ phấn khích.

Tôi nhìn quanh, cố tình tìm xem dân Mông Cổ có cá cược không - điều vẫn thường xảy ra ở mọi trường đua trên thế giới - song chỉ thấy những nụ cười, những lời cổ vũ trong sáng trên môi những con người mà y phục cũng đủ nói lên cuộc sống quá khó khăn của họ.

Qua ba vòng, con Thần Phong đang dẫn đầu, bám sát theo là con Bão Cát, một tay đua đã bỏ cuộc khi tự nhiên con lạc đà bỗng đứng lại “đình công” không thèm đua nữa! Vòng cuối cùng “cơn gió thần” vẫn dẫn đầu. Ông già Thường Sinh Bác bỗng đứng hẳn người dậy, hét lên một tràng tiếng Mông Cổ, rồi dùng tay vỗ liên hồi vào mông lạc đà, con Bão Cát của ông bật lên, sải từng bước dài dũng mãnh vượt qua con Thần Phong chỉ đúng nửa thân mình...

Tạm biệt Gobi!
Cứ nghĩ nhiều ngày sống trong sa mạc, đã cưỡi được lạc đà trên sa mạc là ngon lành, nên ngay khi cuộc đua kết thúc, tôi chạy theo làm quen với ban tổ chức và xin... đua thử! Hơi bất ngờ trước lời đề nghị “ngây ngô” của một người nước ngoài như tôi, mà điều kiện phải “có lạc đà mang tới” tôi cũng không đáp ứng được, nhưng cuối cùng họ cũng vui vẻ cho mượn một con lạc đà cao to và mời tôi lên yên.

Mọi việc diễn ra khá suôn sẻ cho đến khi chuẩn bị đua, dù cũng cầm roi, cũng hét lên, dùng chân thúc vào bụng lạc đà liên tục, nhưng khi tất cả những con lạc đà khác đều đã lao về phía trước thì con lạc đà của tôi vẫn ngọ nguậy đứng yên một chỗ! Đến lúc tôi vừa nới lỏng chân thì con lạc đà bỗng vùng chạy làm tôi suýt té ngửa. Cũng may anh nài Mãn Đô Lạp kịp chạy đến nắm lấy dây giữ lạc đà lại rồi lôi tôi xuống...

5d.jpg


Tôi hỏi Mãn Đô Lạp: “Ở đây mỗi năm có bao nhiêu người chết và bị thương bởi đua lạc đà?”. Anh cười: “Chưa thấy. Nhưng khó xảy ra lắm vì chúng tôi đều sinh ra và lớn lên trên lưng lạc đà cơ mà”. Lạp chỉ mới 18 tuổi nhưng đã nghỉ học từ lâu. Anh kể: “Đúng ra bây giờ tôi đang ở sâu trong thảo nguyên với mẹ để chăn dê, chăn ngựa rồi nhưng có giải đua ngựa lớn quá nên ở nhà tham gia. Giải thưởng của tôi năm nay được 5.000 tệ (khoảng 10 triệu VND) cơ đấy. Số tiền này đủ cho hai mẹ con sống đến mùa xuân năm sau”.

Mãn Đô Lạp và người bạn đồng hành của tôi- Sơn "Trung Quốc"
5c.jpg


Tôi bắt chuỵện với người thắng cuộc, ông già Thường Sinh Bác. Ông nói chuyện bằng thứ tiếng phổ thông pha Mông Cổ nên anh bạn đồng hành của tôi dù nói tiếng Hoa rất giỏi vẫn chật vật mới hiểu được. Tôi đi bộ theo ông về nhà. Vừa đi ông vừa hát ư ử một bài dân ca Mông Cổ với giai điệu khá lạ tai:

Chú lạc đà con mất mẹ

Cứ mãi khóc than vì đói

Nó đã mất mẹ rồi

Nên phải cô đơn trong gió cát...


Vừa hát ông vừa nhìn con lạc đà rất trìu mến, miệng nói với chúng tôi: “Tôi nuôi nó từ lúc mới đẻ. Mẹ nó chết rồi, tội nghiệp lắm”.Trong cái lều khoảng 9m2 chất ngổn ngang yên ngựa, cờ xí, ông Bác chậm rãi tiết lộ vài “chiêu” huấn luyện lạc đà đua: khi lạc đà hai tuổi, phải dạy cho nó biết khi nào phải đi, phải chạy, quì xuống, đứng lên theo lệnh của chủ. Khi được bốn tuổi, người chủ chọn ra những con lạc đà khôn ngoan nhất và ít bệnh rồi huấn luyện cho cả bầy chạy đua khoảng 1km, con nào nhanh nhất sẽ được chọn làm lạc đà đua.

Đối với con Bão Cát, ngoài bữa ăn hằng ngày còn được bồi bổ thêm bắp, sữa, cỏ linh lăng và 50 gam muối hột mỗi ngày. Đặc biệt, có một điều ít ai biết: trước cuộc đua một ngày con Bão Cát không được cho uống nước và không cho ăn 12 tiếng. Đang cười nói huyên thuyên, giọng ông Bác chùng xuống: “Chẳng ai sống được nhờ đua lạc đà cả. Đấy chỉ là trò vui trong giây lát để mọi người tạm quên đi nỗi khó nhọc vì chuyện áo cơm trong sa mạc...”

Ông già Thường Sinh Bác sống trong cái lều- vừa là nhà vừa là kho đồ của các tay nài.
5g.jpg



Tôi đứng thẫn thờ thật lâu trên đồi cát mênh mông. Đã hơn 8 giờ tối mà trời vẫn nắng chang chang, cái nóng vẫn hực lên từ mặt trời, từ cát, từ những bụi cỏ khô cháy... Cái nóng điên người những ngày đầu làm tôi thật sự bị sốc, giờ đây cũng dần trở nên quen thuộc. gần 3 tuần lang thang sao ngắn ngủi quá.

Lời người bạn Mông Cổ mới quen hồi chiều nhưng tha thiết lắm: “Chỉ hơn 10 ngày nữa thôi lễ hội truyền thống lớn nhất của người Mông Cổ sẽ diễn ra, anh nên ở lại với chúng tôi, anh sẽ hiểu người Mông Cổ chúng tôi hơn, hiểu cư dân sa mạc Gobi hơn...”.

Chỉ hơn mười ngày nữa thôi, tôi sẽ có dịp được rong ruổi khắp sa mạc, thảo nguyên, cùng ăn, cùng thở với dân sa mạc…Thế nhưng điều kiện đã không cho phép tôi ở lại Gobi lâu hơn, phải về thôi, dù về trong nuối tiếc.
Tôi lần trong túi lấy ra đồng tiền 5.000 đồng - những đồng tiền leng keng tôi mang theo để làm kỷ niệm với những người bạn du mục xa xôi, tôi vùi sâu đồng tiền xuống lớp cát nóng bỏng. Thầm mong rồi một ngày nào đó sẽ có một người dân du mục - đứa con của hoang mạc Gobi - nhặt được nó và thốt lên: “À! Có một người VN đã từng đi qua sa mạc Gobi!”...
 
Last edited:

Hỏi Phượt

Forum statistics

Threads
56,485
Bài viết
1,153,182
Members
190,103
Latest member
Penguin1
Back
Top