greenline
Phượt gia
Tình cờ lục lọi trên mạng tìm được hướng dẫn ứng xử khi tiếp xúc với người địa phương của Ủy ban dân tộc, mình gửi lên đây cho mọi người tham khảo. Topic này cũng có thể mở rộng sang các trường hợp, kinh nghiệm, chú ý cần thiết trên đường đi. Các bác ai có gì thì đóng góp nhé. (beer)(beer)(beer)
Nước ta có 53 dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc dù số dân có ít đến đâu, dù trình độ phát triển kinh tế, xã hội thế nào thì từng dân tộc cũng đều có bản sắc văn hóa riêng; bản sắc đó góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng trong tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.
Tìm hiểu, tôn trọng những phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số là trách nhiệm của cán bộ trong hệ thống chính trị nói chung, của cán bộ làm công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Bài viết này xin trao đổi một số nội dung xung quanh vấn đề trên; hy vọng sẽ là những thông tin bổ ích cho nhiều cán bộ, nhất là những cán bộ trẻ mới làm, hoặc chuẩn bị làm công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ nhất, về tên gọi và một số thuật ngữ thường dùng trong công tác dân tộc: Trong thực tế còn gặp một số người khi viết, khi nói xác định tên dân tộc lại dùng tên do các dân tộc tự gọi, tên theo nhóm địa phương, hoặc tên gọi khác. Ví dụ: dân tộc Hoa gọi là dân tộc Xạ Phang, dân tộc Hán... dân tộc Chứt gọi là dân tộc Rục, dân tộc Mã Liềng, dân tộc Sách; dân tộc Dao gọi là dân tộc Mán; dân tộc Khơ Mú gọi là dân tộc Xá, dân tộc Chăm gọi là dân tộc Chàm... cách gọi trên dùng để nghiên cứu dân tộc. Trong công tác dân tộc gọi theo danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam do nhà nước ban hành là đúng hơn cả. Theo số liệu thông kê, nước ta có 54 dân tộc trừ dân tộc Kinh chiếm đa số, dân số của 53 dân tộc còn lại chỉ chiếm tỷ lệ 13,8% của cả nước. Khi nói, khi viết là để chỉ chung cho các dân tộc (trừ dân tộc Kinh) là đúng và đã được ghi trong điều 5 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Read more: http://www.ubdt.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=117448683#ixzz0SYhvhweN
Một số điểm cần lưu ý nhằm tăng cường kỹ năng công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Nước ta có 53 dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc dù số dân có ít đến đâu, dù trình độ phát triển kinh tế, xã hội thế nào thì từng dân tộc cũng đều có bản sắc văn hóa riêng; bản sắc đó góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng trong tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.
Tìm hiểu, tôn trọng những phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số là trách nhiệm của cán bộ trong hệ thống chính trị nói chung, của cán bộ làm công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Bài viết này xin trao đổi một số nội dung xung quanh vấn đề trên; hy vọng sẽ là những thông tin bổ ích cho nhiều cán bộ, nhất là những cán bộ trẻ mới làm, hoặc chuẩn bị làm công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ nhất, về tên gọi và một số thuật ngữ thường dùng trong công tác dân tộc: Trong thực tế còn gặp một số người khi viết, khi nói xác định tên dân tộc lại dùng tên do các dân tộc tự gọi, tên theo nhóm địa phương, hoặc tên gọi khác. Ví dụ: dân tộc Hoa gọi là dân tộc Xạ Phang, dân tộc Hán... dân tộc Chứt gọi là dân tộc Rục, dân tộc Mã Liềng, dân tộc Sách; dân tộc Dao gọi là dân tộc Mán; dân tộc Khơ Mú gọi là dân tộc Xá, dân tộc Chăm gọi là dân tộc Chàm... cách gọi trên dùng để nghiên cứu dân tộc. Trong công tác dân tộc gọi theo danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam do nhà nước ban hành là đúng hơn cả. Theo số liệu thông kê, nước ta có 54 dân tộc trừ dân tộc Kinh chiếm đa số, dân số của 53 dân tộc còn lại chỉ chiếm tỷ lệ 13,8% của cả nước. Khi nói, khi viết là để chỉ chung cho các dân tộc (trừ dân tộc Kinh) là đúng và đã được ghi trong điều 5 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Read more: http://www.ubdt.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=117448683#ixzz0SYhvhweN