What's new

[Chia sẻ] Kailash mùa thu 2014

Tháng Mười Hai, những ngày cuối cùng của tháng cuối năm, nhìn cuốn lịch mỏng dần chợt thảng thốt nhận ra một năm sao mải miết trôi nhanh đến thế. Trong giá rét của mùa đông Hà Nội, đếm những tờ lịch còn lại mà thấy da diết nhớ về những ngày kora rực rỡ giữa mùa thu tràn nắng và lòng vẫn day dứt về một lời hứa chưa thực hiện, lời hứa chia sẻ về một chuyến đi chưa từng kể lại - Kailash mùa thu 2014.

Kailash - chuyến hành hương ấp ủ hơn 3 năm của những kẻ đã từng một lần đặt chân đến Tibet và đã nặng lòng với vùng đất của chư thiên ấy.

Chuyến đi này, tôi kể lại đây như một lời tri ân với diễn đàn phượt, nơi tôi đã từng nhận biết bao thông tin quý giá không chỉ về Tibet và Kailash.

Chuyến đi này, tôi kể lại đây như một món quà dành cho người bạn đã từng đi Kailash, dù mới quen nhưng đã sẵn lòng tặng tôi những viên thuốc pháp quý báu của vị đại sư Nepal, những viên thuốc đã tiếp cho tôi thêm động lực trên đường hành hương.

Chuyến đi này, chuyến đi của đời người, đã thành một dấu ấn trong đời mà tôi chắc sẽ chẳng bao giờ quên được, tôi kể lại đây vào những ngày sắp khép lại một năm, cũng là để chuẩn bị cho cuốn nhật ký của những chuyến đi mới đang chờ đợi tôi phía trước.

Kailash mùa thu 2014.
 
Tái sinh

"Ai đã thực hiện nghi thức đi vòng quanh ngọn núi thiêng với lòng tin tưởng hoàn toàn và tâm thức tập trung, người đó đã đi trọn một vòng sống chết" (Anagarika Govinda)

Trên chặng đường kora ngày thứ hai, nếu như tại Shiva Tsal người hành hương phải chịu sự phán xét của Tử vương Lama và trải qua cái chết có tính chất tượng trưng, thì khi tiếp tục leo qua đèo Dolma-la họ sẽ được tái sinh sang một kiếp sống mới và được công nhận trở thành con người mới.

Qua cửa tái sinh trên đèo Dolma-la, từ đỉnh đèo trông xuống là một mặt hồ xanh biếc màu ngọc lục phản chiếu bóng núi - hồ Đại Bi (mà người Hindu gọi là hồ Gauri Kund). Mới đầu mùa thu nên mặt nước hồ chưa bị đóng băng, thời tiết quá đẹp khiến nhiều khách hành hương người Tạng đã xuống tận nơi để chiêm bái và đi kora quanh hồ. Nhìn từ trên xuống cứ tưởng đây chỉ là một vũng nước nhỏ, nhưng kỳ thực sâu đến hơn 20m. Theo truyền thuyết Hindu giáo, hồ này gắn với câu chuyện về vị thần đầu voi mình người Ganesha - con trai của nữ thần Parvati. Chính tại Gauri Kund này, vị nữ thần đã tạo ra con trai mình bằng cách nặn bọt xà phòng trên cơ thể mình và thổi sự sống vào đó. Pravati đã đặt Ganesha ở cổng nhà để canh gác khi nàng đang tắm. Khi thần Shiva đi qua đây và bị Ganesha chặn lại, đã tức giận chặt đầu Ganesha. Quá đau buồn, nữ thần Pravati yêu cầu Shiva phải cứu sống cậu bé. Shiva đi vào rừng và đã thề sẽ chặt đầu người đầu tiên ông gặp để cứu Ganesha. Nhưng đi mãi đi mãi mà ông chỉ gặp một con voi. Cuối cùng, vị thần của Hủy diệt đã chặt đầu con voi để chắp vào thân mình thần Ganesha.

21380105275_98000422cf_b.jpg

(ảnh NL)

Đường lên Dolma-la đã dốc, chặng đường xuống đèo còn dốc hơn nhiều. Đây là ảnh sưu tầm trên mạng, cho thấy độ cao và độ dốc của con đường kora ngày thứ hai qua Dolma-la. Trong lúc đang đổ dốc, tôi đã gặp một nhóm người Tạng đang hì hục leo lên theo chiều ngược lại. Đi kora ngược chiều kim đồng hồ, họ chắn chắn là những tín đồ của Bon giáo. Giờ đây đã qua đèo rồi, nhìn lại con dốc dựng đứng sau lưng mà thấy ớn.

21215157900_f8b5217f97_b.jpg

(ảnh sưu tầm)

Dòng người từ Dolma-la đổ xuống

19694589914_fdf6cb7221_b.jpg


17319354975_9eb75dc7e4_b.jpg

(ảnh La)

Đổ dốc được một đoạn đã nhìn thấy trên rặng núi đen thẫm với những rãnh cắt xẻ ngang dọc kỳ dị phía xa nổi bật mỏm đá hình lưỡi rìu mà người Tạng gọi là dấu hiệu của thần chết - Rìu Nghiệp lực (The Axe of Karma) của Tử vương Lama. Người Tạng đi qua đây không ai dám nhìn lâu vào khối đá đáng sợ ấy vì cho rằng nghiệp báo từ vô lượng kiếp đổ về sẽ dẫn đến việc trả nghiệp dồn dập quá sức chịu đựng. Nhưng tôi biết, trước lòng từ bi của mẹ Tara xanh, cái rìu ấy sẽ mất đi sự đáng sợ bởi lòng từ bi có sức mạnh hơn nghiệp chướng.

21380683425_09fbf2d6d6_b.jpg

(ảnh NL)

21389116131_eb7896b3d9_b.jpg

(ảnh NL)

Dải băng hà trên đường xuống dốc.

21354589976_1a7c32b6fb_b.jpg

(ảnh NL)

Hết dốc đá rồi lại đến dốc đất trơn trượt. Chỗ này chính là nơi tôi đã được một cậu bé người Tạng dắt tay đi qua khi vừa mới bị trượt chân.

16793075586_27bd39976d_b.jpg


Teahouse phía đằng xa, trong lòng thung lũng sông Lham-chu.

17293396326_1ecd4cb605_b.jpg

(ảnh La)

Quang cảnh trong Teahouse

16833704472_702d83e142_b.jpg


Lúc tôi về đến Teahouse, thấy anh T và Sói em đã ăn trưa xong và đang ngồi nghỉ. Trong căn lều nóng sực và nồng nồng ngai ngái mùi của trà bơ, của mỳ tôm và các loại thức ăn nhanh, khách hành hương kẻ đứng người ngồi, có những cụ bà người Tạng ôm gậy ngồi thở dốc, mệt mỏi nhưng đầy mãn nguyện. Ngồi nhấm nháp trà bơ, tôi để ý cặp vợ chồng trung niên ở bàn đối diện. Qua nét mặt và phong thái của họ, tôi đoán anh chị là người Nhật. Người vợ ngồi gục đầu vào vai chồng, mắt nhắm nghiền mỏi mệt. Anh chồng quãng 50 tuổi, tóc đã điểm bạc, đôi mắt hiền từ sau cặp kính trắng, lặng lẽ ngồi uống trà, thỉnh thoảng lại quay sang âu yếm hôn tóc vợ. Tôi cứ ngắm mãi hai con người này, ở họ toát lên cái nét văn minh, vẻ trầm tĩnh và từng trải sâu sắc, cái an nhiên tự tại của người biết mình vừa đi trọn một vòng sinh tử của đời người. Tôi cảm nhận được tình yêu sâu thẳm mà anh chị dành cho nhau. Nghĩ đến cái lệnh cấm người mang quốc tịch Pháp, Nhật, Việt Nam và Na Uy vào Kailash trong năm con ngựa này, tôi ngạc nhiên tự hỏi "Người Nhật ư, làm sao mà họ đến được nơi này?" để rồi lại tự trả lời "Cần gì phải giải thích, họ và chúng tôi, đã có cơ duyên được ngọn núi thiêng chọn lựa, ấy là cái duyên may mắn lớn nhất trong đời người". Trong khoảnh khắc đối diện với những con người ấy, tôi thấy như đang đối diện với một tấm gương trong suốt phản chiếu lại chặng đường tôi đã đi qua, tôi thấy được sợi dây vô hình và vi tế nối tôi với họ qua những chứng nghiệm chung mà chúng tôi cùng trải qua trên vùng linh địa này. Trong giây phút ấy, tôi ý thức một cách đủ đầy và sâu sắc rằng tôi cũng vừa được tái sinh.
 
Đường về

Ăn uống nghỉ ngơi ở Teahouse xong đã lâu, chúng tôi đợi mãi mà chưa thấy chị NL với La và Samdrup đâu. Đang chuẩn bị đi tiếp thì 3 bạn cũng vừa về tới. Khổ thân chàng guide Samdrup, trút hai cái ba lô trên vai xuống rồi ngồi thượt ra vì vẫn còn hâm hấp sốt. Gọi trà bơ và mỳ tôm cho các bạn rồi chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Anh T vẫn cưỡi ngựa, còn tôi và Sói em thong thả đi bộ, theo con đường bên bờ tây sông Lham-chu để về thung lũng của Bất Không Thành Tựu Như Lai, cái đích cuối ngày sẽ là tu viện Zutupuk.

Thênh thang đường về

16697165464_804415e7d9_b.jpg


16833878112_29bf6d3c23_b.jpg


16833919141_c699ac6914_b.jpg


Đoạn đầu tiên xuất phát từ Teahouse chính là điểm gặp nhau giữa con đường từ đèo Dolma-la và đèo Khandro Sanglam-la đi xuống (chỗ đánh dấu màu đỏ trên bản đồ). Ở đây, nếu đi bên bờ tây sông Lham-chu sẽ không có cơ hội nhìn thấy mặt đông của Kailash. Tôi và Sói em vẫn bám theo con đường bờ tây nên đã bỏ lỡ mất hình ảnh tuyệt đẹp ấy.

20789407934_3afcd27979_b.jpg


May mắn thay, chị NL và La đi sau đã sang phía bờ đông của dòng Lham-chu, vì vậy đã ghi lại được hình ảnh mặt phía đông của ngọn núi thiêng. Đây là ảnh của chị NL, tấm ảnh duy nhất nhóm tôi chụp được mặt phía đông - mặt pha lê của Kailash. Trong ảnh, vẫn có thể nhận thấy phần góc lõm chếch phía bên phải chính là mặt bắc của ngôi đền thiên giới vĩ đại.

21193410868_c520e381a3_b.jpg

(ảnh NL)

Bức ảnh này cũng làm tôi nhớ đến một bức ảnh em La đã chụp trên đường đi Tirthapuri, chính là ảnh mặt tây - mặt ruby của Kailash, ở chiều ngược lại so với mặt đông, với góc lõm nằm phía bên trái của đỉnh núi.

17132575319_c1b0ffbacd_b.jpg

(ảnh La)
 
Đường về

Đường về Zutupuk chiều thu ấy, thung lũng Lham-chu chan hòa nắng và gió. Con đèo ngạo nghễ đã bỏ lại sau lưng, bước chân kẻ hành hương nhẹ nhàng hơn bao giờ hết.

21195105469_1d71d44c49_b.jpg

(ảnh NL)

16648695509_b0b8178bd2_b.jpg

(ảnh La)

Mây trời phía trước đẹp đến nao lòng

21622480655_c241ab5bf7_b.jpg


21370787462_33908ca6cc_b.jpg

(ảnh NL)

Đường về Zutupuk chiều thu ấy, lối về mải miết tới tận chân trời đầy mây trắng, không còn những đoạn dốc gắt nữa, con đường thoai thoải xuyên qua lòng thung lũng Lham-chu, bãi sông mùa cạn những đàn yak nhẩn nha gặp cỏ thật yên bình

21499985211_820e4f3224_b.jpg

(ảnh NL)

21491212625_a5a7981fd0_b.jpg


Đường về Zutupuk chiều thu ấy, thời tiết thật kỳ lạ, trời đang nắng bỗng đổ mưa bóng mây, rối bỗng chốc lại thấy cả những bông tuyết lất phất nhẹ đậu trên vai áo kẻ hành hương.

16817865631_e3141e6fb3_b.jpg


16589375490_f43c918525_b.jpg

(Bạn tây này gặp từ sáng, trang bị đầy người, thậm chí còn đeo cả tấm kê mông để ngồi nghỉ chân nữa)

Bình yên một thoáng cho tim mềm

16631562180_b7d9b99f50_b.jpg


21434382220_a830afce53_b.jpg


Đường về Zutupuk chiều thu ấy, chúng tôi gặp lại người đàn ông Tạng Thanh Hải trọ cùng guesthouse ở Darchen. Hôm đầu tình cờ gặp anh trong quán Thần Sơn Như Ý, tôi đã khá ngạc nhiên vì lần đầu tiên thấy một người Tạng có phong thái tây đến thế. Hai hôm ở Darchen cứ suốt ngày chạm mặt anh chàng to như hộ pháp ấy, lúc thì ở nhà trọ, lúc ở quán Thần Sơn, lũ chúng tôi đã goi anh là Trác Mộc Cường Ba (tên nhân vật chính trong tiểu thuyết "Mật mã Tây Tạng" của Hà Mã). Bây giờ hỏi chuyện mới biết trong vòng mấy hôm nay anh Trác Mộc đã thực hiện được 3 lần Kailash kora, lần đầu đi với bố hết 2 ngày, lần thứ hai đi với em gái hết 1 ngày và đây là lần thứ 3 cũng hết có 1 ngày. Thật đáng ngưỡng mộ. Con người ấy hẳn phải có niềm tin sâu sắc với Phật Pháp mới có thể thực hiện liên tiếp 3 vòng kora như thế. Đi cùng chúng tôi một đoạn thì anh chia tay để về Darchen ngay trong hôm ấy. Nhìn anh sải những bước chân dài mạnh mẽ đi trước, hai chị em bảo nhau, anh ấy có thừa khả năng đi liên tiếp cả 13 vòng kora ấy chứ. Tiếc là chả có cái ảnh nào của anh Trác Mộc cả.
 
Zutupuk

Đường về Zutupuk

17133109439_5fee69d09a_b.jpg


5h30 giờ chiều ngày kora thứ hai, tôi và Sói em đến tu viện Zutupuk. Anh T đã về trước đó. Đợi chừng nửa tiếng nữa thì 3 bạn đi sau cũng về. Trong lúc Samdrup đi liên hệ phòng nghỉ, chúng tôi lên tu viện Zutupuk.
Zutupuk - cái tên này bắt nguồn từ thạch động phía bên trái tu viện: "Zutu" nghĩa là thần diệu, "puk" là hang động. Bởi vậy Zutupuk mang nghĩa cái hang thần diệu - nơi vốn là hang thiền định của Tổ sư Milarepa. Nơi đây cũng xảy ra trận đấu phép huyền thoại giữa vị Đại sư với một giáo sỹ của Bon giáo là Naro Bonchung. Truyền thuyết kể rằng Milarepa và Naro Bonchung đã thỏa thuận cùng xây thất tu tập ở nơi này, tuy nhiên vị Tổ sư của Mật Tông đã làm trước mái nhà mà không cần gá lên bức tường do Naro Bonchung xây sau đó. Khi nhận ra là mái nhà quá cao, Milarepa đã dùng lực bàn tay để ấn cho mái nhà xuống thấp hơn, quá trình vận công này đã để lại dấu chân của vị Đại sư ngay chỗ cửa cái hang thần diệu.

Cũng như tu viện Dirapuk, Zutupuk năm nay đang được trùng tu. Toàn bộ tượng và đồ thờ trong gian chính điện được chuyển sang gian chứa kinh sách phía ngoài, nổi bật trong số các pho tượng ấy có tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, và tượng Đại sư Liên Hoa Sinh với hình tướng dữ tợn như vẫn thường thấy trong các chùa trên đất Tạng.

Đã mệt nên 5 anh em chúng tôi chỉ làm lễ trong tu viện mà không sang thăm hang thần diệu nữa. Nhận phòng xong, tôi và Sói em đi tìm mua đồ ăn nhưng các Teahouse xung quanh chẳng còn bán gì ngoài trà bơ. Cuối cùng, nhờ Samdrup mà 5 anh em chúng tôi mua được 5 suất cơm và trứng luộc. Cơm 15 tệ/5 bát, còn trứng luộc thì đắt lè lưỡi: 100 tệ/5 quả, cộng với phích nước nóng 15 tệ nữa. Trong ánh sáng nhá nhem của ngày tàn hắt qua cửa sổ, cả lũ ngồi nhá cái thứ cơm đã lại gạo khô khốc với trứng luộc và ruốc mang theo, suất ăn mà mấy anh em cứ đùa nhau là "mỗi đứa một bát cơm - quả trứng". Buổi tối kết thúc bằng tiết mục đánh răng dưới trăng. Giấc ngủ đến nhẹ nhàng khi trăng rằm sáng vằng vặc ngoài cửa sổ. Chặng đường đã sắp hoàn thành, ngày mai chỉ còn 10km đường về Darchen nữa thôi là vòng kora quanh núi thiêng sẽ khép lại.
 
Last edited:
Kailash kora - ngày thứ ba

Ngày kora thứ 3, chúng tôi dậy sớm và khởi hành từ lúc 5h30. Ngoài trời, trăng vẫn sáng vằng vặc. Tôi với chị NL và La khoác ba lô đi trước, hai bạn còn lại sẽ đi ngựa về sau với Samdrup. Trên con đường hành hương ban sớm, chúng tôi không cảm thấy cô đơn, bạn đồng hành với chúng tôi là vầng trăng vành vạnh giữa trời, là những người Tạng cũng đang hoàn thành nốt chặng đường kora, là tiếng lầm rầm niệm chú và tiếng lách cách quay mani.

Chặng đường ngày kora thứ 3 tương đối bằng phẳng, dễ dàng với độ dài khoảng 10km, là con đường mòn từ thung lũng phía đông dẫn tới vùng đồng bằng để về lại thị trấn Darchen. Trăng lặn dần, bầu trời nhạt nhòa dần ửng một màu hồng phía trước. Ba chị em đã đi từ bóng tối ra đến bình minh của đồng bằng Barkha. Bên kia dải bình nguyên, phía chân trời xa dải mây hồng như tấm khăn nhẹ vắt trên dãy Gurla Mandhata phủ đầy tuyết trắng.

16817937382_f904db95a1_b.jpg


16793151856_9ac03d136b_b.jpg


Những người Tạng hành hương buổi sớm

16819043655_e9d9c48e7e_b.jpg


Nhìn lại con đường chúng tôi vừa đi qua

16611744977_b55bcf8e14_b.jpg


Chorten cuối cùng trên đường kora, nắng sớm chan hòa trên những dải phướn cầu nguyện và đống đá mani xếp bên đường.

16698371189_6792827944_b.jpg

(ảnh NL)

16199108253_30d81e4598_b.jpg


16793166236_31884d2fae_b.jpg


16631476808_d7c627bafb_b.jpg
 
Kailash kora - ngày thứ ba

Những người Tạng này đang nhẫn nại hoàn thành nốt chặng cuối cùng của vòng kora theo nghi thức ngũ thể nhập địa. Không biết họ mất bao nhiêu ngày để hoàn tất chặng đường hành hương. Tôi bỗng nhớ đến hai mẹ con người phụ nữ Tạng đã gặp ngày kora đầu tiên lúc vừa qua Tarboche, băn khoăn tự hỏi giờ này mẹ con chị đã đi đến đâu rồi, mong cho những ngày tiếp theo trời vẫn nắng đẹp thế này để hai mẹ con về đích bình an.
16883489381_b52026718e_b.jpg

(ảnh NL)

16817929172_7d3ffdd1fa_b.jpg


Người hành lễ ngũ thể nhập địa vẫn cứ miệt mài trên những đoạn đường cuối, để lại phía sau họ những dấu vết này trên mặt đất - những vòng tròn do cánh tay vẽ nên khi quỳ xuống bái lạy rồi lại quạt ra sau, chống xuống đất để lấy đà đứng lên. Phía sau họ, chúng tôi khẽ khàng đi sang bên cạnh, không dám dẫm lên những dấu vểt của lòng mộ đạo ấy dù vẫn biết rồi gió sẽ cuốn đi tất cả.

16196684954_917d048a3b_b.jpg


Đường về

16819027245_792e921ee4_b.jpg


16793158896_a187e7be5f_b.jpg


16631651540_3d0dfc883e_b.jpg


9h sáng, nhìn sang phía bên phải thấy một dãy lều bạt, có gắn biển của PSB. Chắc chắn đây là điểm check-in vào chân núi rồi. Sáng ngày kora thứ nhất vì trời quá tối và nhân viên PSB quá đông nên chúng tôi không tưởng tượng được nó lại như thế này. Dãy lều giờ đây vắng hoe, chỉ có một nhân viên PSB đang ngồi trực. Năm nay, lượng khách vào Kailash bị hạn chế không quá 90 lượt người mỗi ngày nên có lẽ nó chỉ đông đúc vào lúc sáng sớm khi làm thủ tục check-in cho người hành hương mà thôi.

17317817142_63e9ddc348_b.jpg

(ảnh La)

Cổng chốt check-in

16627813227_53f3a942af_b.jpg

(ảnh La)

Phía cuối con đường, thị trấn Darchen đã hiện ra

17319664465_1d2d74632c_b.jpg

(ảnh La)

Gurla Mandhata (7728m) trong làn mây buổi sớm

16262085384_5d31dc9e07_b.jpg

(ảnh NL)
 
Tạm biệt Darchen

9h30 sáng ngày hôm ấy, chúng tôi đã về đến thị trấn Darchen, khép lại vòng kora trong mơ. Thị trấn đón chúng tôi trong nắng sớm dịu dàng, đường vẫn vắng người qua lại. Đây, cây cầu bắc qua sông đầu thị trấn, lungta chăng kín chẳng nhìn thấy dòng sông.

16196680564_9c79a4f23e_b.jpg


Và phía trên kia, một góc của mặt nam Kailash trắng xóa nổi bật trên nền trời xanh thẳm.

16858551036_fe3e767e51_b.jpg

(ảnh NL)

Ba chị em check-in Darchen, khép lại chặng đường hành cước.

21438275800_672a3b5941_b.jpg


Lại đi qua cái nhà trọ quen thuộc

21298315688_cb3ba9e51e_b.jpg


Kết thúc vòng kora, chúng tôi về lại quán Thần Sơn Như Ý, mấy anh em quây quần quanh ấm trà bơ. Nhấm nháp cái hương vị giờ đã trở nên quen thuộc, để vị mặn lan tỏa thấm thía đầu lưỡi, để tận hưởng niềm an nhiên của người hành hương đã đến đích.

21627280585_1a801537f3_b.jpg

(ảnh La)

Darchen mơ màng trong nắng sớm. Darchen của tôi, cái thị trấn nhỏ yêu dấu tôi mới ở có hai ngày đã thấy thân thiết. Sắp tạm biệt rồi, biết bao giờ có ngày trở lại đây, tôi vẫn còn vòng Inner kora chưa thực hiện được. Không biết khi tôi trở lại, thị trấn sẽ thay đổi như thế nào. Nhưng, có lẽ như bạn June đã nói, vòng kora quanh núi thiêng chắc ngàn vạn năm sau vẫn mãi như thế bởi nó chỉ dành cho những ai đi hành hương với "lòng tin tưởng hoàn toàn và tâm thức tập trung", những người đã nghe thấy tiếng gọi đánh thức mình ra khỏi sự tự mãn bản thân và lòng ước ao về những gì cao đẹp vẫn còn thôi thúc, những người đó sẽ tiếp tục làm thành một dòng người hành hương miên viễn và vô tận lặng lẽ chảy quanh ngọn núi thiêng.

Darchen, nơi lời ước hẹn của chúng tôi đã viên thành sau 3 năm chờ đợi. Thị trấn yêu dấu, giây phút tạm biệt.

21299215559_564cca4080_b.jpg


21475089722_8ac429bf65_b.jpg

(ảnh Sói em)

Tạm biệt anh chủ đáng mến của quán Thần Sơn Như Ý.

21298095180_e4d7182ef3_b.jpg

(ảnh Sói em)

Phải vội vàng chia tay thị trấn nhỏ giờ đã trở thành một góc đáng nhớ của tâm hồn, bởi chúng tôi chỉ còn trọn vẹn 2 ngày trên đất Tạng nữa thôi. Samdrup bảo hôm nay chúng tôi phải cố gắng chạy về Dzongba nghỉ tối, còn bây giờ trên đường sẽ ghé thăm thánh hồ Manasarovar.

16677084437_b4d704c3dc_b.jpg

(ảnh NL)

16834231211_b0e7020f1e_b.jpg

(ảnh La)
 
Manasarovar

Nằm ở phía nam ngọn Thần sơn Kailash là hai hồ thiêng, mang ý nghĩa của hai cặp phạm trù đối lập: Thiện - Ác, Sáng - Tối, Giác ngộ - Vô minh, đó là hồ Manasarovar (Mã Bàng Ung Thác) và hồ Rakastal (Lạp Ngang Thác), còn gọi là hồ Thần và hồ Quỷ. Những ý niệm về Thiện - Ác này thể hiện trong tên gọi của hai hồ: manas có nghĩa là tỉnh thức - khai sáng, mang sức mạnh của giác ngộ; rakas là ma quái, nên Rakastal còn được gọi là hồ quỉ. Nếu như Manasarovar nằm ở phía đông - nơi ngày mới bắt đầu và có hình mặt trời, biểu tượng cho sức mạnh của ánh sáng, thì Rakastal lại nằm ở phía Tây - nơi bóng tối ngự trị và có hình trăng lưỡi liềm, biểu tượng cho sức mạnh ẩn tàng của bóng đêm, hiện thân cho những năng lực đen tối của ma quái.

21401199970_00b184db66_b.jpg

(ảnh sưu tầm)

Bản thân tôi trước đây đã khá băn khoăn khi biết Manasarovar còn có tên là "Hồ ngọc bích vô địch", và khi khi tìm hiểu về nguồn gốc cái tên của Manasarovar cùng cái hồ song sinh Rakastal, mới biết từ "vô địch" là do có một sự tích liên quan đến lịch sử các vương triều cát cứ trên mảnh đất cao nguyên kỳ bí này, điều này cũng làm cho tôi thấy có hứng thú hơn so với những gì đã từng đọc trước đó.

Đây là sự tích về tên gọi của hai hồ:

Khoảng thế kỷ thứ sáu - thứ bảy sau công nguyên, cao nguyên Tây Tạng cũng ở trong tình trạng tương tự như thời Xuân Thu Chiến Quốc của Trung Nguyên, nổi lên một loạt các nước cát cứ tranh hùng xưng bá: miền trung có Thổ Phồn, phía Đông có Đa Di, Đảng Hạng, Bạch Lan, phía Bắc có Tô Tì, Thổ Cốc Hồn, Hoắc Nhĩ, phía Tây có Tượng Hùng và một loạt các nước chư hầu nhỏ khác.

Thổ Phồn là quốc gia đóng ở miền trung Tây Tạng, cai trị một vùng rộng lớn trên lưu vực sông Nhã Lung (Yarlung Tsangpo). Về sức mạnh và tiềm lực quân sự, đến thời Tán phổ Tùng Tán Can Bố, có thể nói là hơn hẳn các nước như Tô Tì, Bạch Lan, Đảng Hạng, Thổ Cốc Hồn. Tuy nhiên, so với Tượng Hùng - một quốc gia cường thịnh nhất ở phía Tây thì Thổ Phồn vẫn chưa phải là đối thủ xứng tầm bởi Tượng Hùng đất rộng người đông, lãnh thổ trải dài toàn bộ phần phía tây và tây bắc của Tây Tạng, binh lực hùng hậu, địa hình lại hiểm yếu, không dễ chinh phạt.

Tán phổ Tùng Tán Can Bố tương truyền từ nhỏ đã thể hiện khí chất của một bậc kỳ tài quân sự xuất chúng. Mới mười ba tuổi đã lên ngôi và quyết tâm thống nhất cao nguyên, vị Tán phổ trẻ tuổi biết rằng, muốn Thổ Phồn phát triển hùng mạnh, phải chinh phạt quốc gia mạnh nhất là Tượng Hùng. Tuy nhiên, với tiềm lực quân sự của Thổ Phồn bấy giờ, chưa thể đánh Tượng Hùng ngay được. Theo sách lược của Tùng Tán Can Bố, Thổ Phồn dần dần thu phục các bộ tộc cát cứ như Tô Tì, Đạt Ba, chinh phạt Thổ Cốc Hồn và Đảng Hạng, thậm chí còn vươn tới tận Trung Nguyên, nhiều phen giao tranh với cả Đại Đường.

Đúng vào thời kỳ này (như tôi đã từng chia sẻ trong phần viết về Tsaparang), có hai dòng họ quý tộc của Vương triều Tượng Hùng là họ Vi và họ Nương đã phản bội vương triều để chạy sang Thổ Phồn, mang theo nhiều bí mật quân sự của vương triều hùng mạnh ở miền viễn Tây sang với Tùng Tán Can Bố. Thời kỳ này, Tùng Tán Can Bố cũng đã gả em gái của mình là công chúa Trại Mã Cát cho vua Ligmikya của Tượng Hùng không ngoài mục đích do thám tin tức quân sự. Được sự phò tá của họ Vi và họ Nương, cùng với những mật tin do Trại Mã Cát gửi về, Tán phổ Tùng Tán Can Bố đã dần dần gây dựng được một lực lượng quân đội hùng mạnh và thiện chiến để đối đầu với vương triều phía tây. Sau nhiều năm củng cố binh lực, năm 634 Thổ Phồn đã xuất quân lên miền tây Tây Tạng chiếm đánh Tượng Hùng - tiến hành một trận chiến long trời lở đất, đánh bại đế chế mạnh nhất ở miền viễn tây và thống nhất toàn bộ vùng cao nguyên Tây Tạng.

Trận chiến thư hùng trên mảnh đất miền tây ấy đã quét sạch mười vạn đại quân của Tượng Hùng, loại bỏ chướng ngại cuối cùng trong công cuộc thống nhất lãnh thổ Tây Tạng, chấm dứt tình trạng cát cứ tranh hùng và đưa Tùng Tán Can Bố trở thành vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử cao nguyên. Để kỷ niệm chiến thắng này, hồ Manasarovar đã được đặt tên thành hồ Thần - hồ Bất Bại, còn hồ Rakastal phía bên Tượng Hùng trở thành hồ Quỷ - nơi ấy âm hồn của mười vạn quân Tượng Hùng muôn đời không tan, oán khí kết tụ. Bởi vậy, Rakastal mặc dù cảnh đẹp chẳng kém gì Manasarovar nhưng luôn gây cho người ta cái cảm giác u ám lạnh lẽo, trong khi phía bên Manasarovar có rất nhiều tu viện và thất độc cư của các hành giả Mật Tông thì bên Rakastal lại luôn quạnh vắng, buồn bã.

Manasaravar - hồ Bất Bại là đây, tôi đến vào buổi trưa ngày trăng tròn sau khi vừa kết thúc vòng kora quanh núi thiêng Kailash. Mùa thu, cỏ ven hồ đã ngả sang màu thắm đỏ. Bên hồ xanh, nổi bật lên mái vòm trắng xóa của ngôi đền thiên giới. Chợt nhớ về sự tích cái tên hồ Bất Bại, mới thấy chiến tranh binh lửa nào rồi cũng qua đi, cái còn mãi là những khoảnh khắc yên bình giữa không gian khoáng đạt này.

16611796547_a065ff05c5_b.jpg
 
Manasarovar

"Trên trái đất khó có chỗ nào đáng được quí trọng và xứng đáng để xem là địa đàng như vùng Ngân Sơn - Manasarovar, mà người Tây Tạng xem là trung tâm của Nam Thiệm bộ châu (thế giới loài người), tâm điểm của mọi xứ sở, mái nhà của thế giới và xem nó là xứ sở của vàng ngọc, suối nguồn của bốn con sông lớn" (Anagarika Govinda)

Manasaravar, chúng tôi đến vào một trưa tháng tám nắng rực rỡ, đi từ xa đã nghe thấy tiếng hát rộn rã, những giai điệu tưng bừng, lại gần chỗ cột phướn mới thấy một đoàn khách hành hương Ấn Độ đang quây quần ăn uống và hò hát bên hồ.

16632907969_4d5eb6c042_b.jpg


Đây là chỗ chúng tôi đã dừng chân tại hồ Thần này, từ đây có thể nhìn được về phía mặt đông nam Kailash.

21024023504_679b444820_b.jpg


Chúng tôi đứng đây, một bên là đỉnh núi uy nghi vươn cao - trú xứ của Demchog, một bên là mặt hồ xanh bí ẩn, trú xứ của Nữ thần Dorge Phangmo - người phối ngẫu của Demchog. Người Tạng quan niệm Demchog và Dorge Phangmo tượng trưng cho chủng tử âm và dương đầu tiên tạo ra đất trời và vạn pháp. Từ chỗ này có thể thấy được cả ngôi đền thiên giới Ngân Sơn và mặt gương xanh huyền bí của Manasarovar - hai biểu tượng của tình yêu tối thượng.

16611796847_13878765c2_b.jpg


Lặng ngắm mặt gương kia biến đổi đầy ảo diệu trong nắng trưa. Dưới bóng mây, mặt nước hồ mang màu xanh lục nhạt như thế này.

17319724565_1c04c96e71_b.jpg

(ảnh La)

Nhưng thật kỳ lạ, chỉ vài giây sau, lúc mặt trời chói lóa hiện ra sau màn mây thì cái gương ấy lại chuyển sang màu đậm hơn, càng xa bờ màu xanh lại càng thẫm và phản chiếu trên mặt nước hàng ngàn ngôi sao lấp lánh.

16196747944_0bf72f4290_b.jpg


16793223526_91ff1b753f_b.jpg


Ảnh quét panorama cho thấy nhưng góc độ xanh kỳ ảo của mặt hồ.

16817982892_0a0499f48e_b.jpg


Đôi lúc, ta chỉ phân biệt được màu xanh của mặt gương Manasarovar và bầu trời thăm thẳm phía trước nhờ dải núi và những đám mây trắng bồng bềnh cuối chân trời.

16819021105_8811ceb5fa_b.jpg


Tu viện Chiu bên hồ

16817983942_d0237a626f_b.jpg
 
Manasarova

Manasarovar, chặng dừng chân ngắn ngủi không đủ để ngắm những sắc độ xanh kỳ diệu của mặt nước hồ thiêng và cũng không kịp lên thăm tu viện Chiu Gompa. Dừng lại nơi này, như những khách hành hương đến đây, chúng tôi đã xuống hồ lấy nước uống và rửa mặt, gột đi những bụi đường xa. Lội ra khá xa nhưng nước cũng chỉ ngang bắp chân. Giữa trưa, nắng chói chang mà nước hồ vẫn buốt giá. Mặc dù khi ở nhà, tôi có thói quen tắm nước lạnh trong mùa đông, nhưng ở đây, giữa mặt nước lộng gió này, vẫn thấy cái lạnh tê tái như kim đâm vào chân, cái lạnh thấm rất sâu, rất sâu. Khi đứng một lúc thấy quen rồi thì lại thấy lan tỏa một cảm giác thật nhẹ nhàng thanh thoát. Chúng tôi xin nữ thần Dorge Phangmo lấy nước hồ mang về cho người thân rồi mới bắt đầu rửa mặt.

20865008463_ae97467916_b.jpg


20865011233_6019380c43_b.jpg


16802055481_a29988fc39_b.jpg


Những giây phút thư thái...

17317883062_04f2c45aa2_b.jpg


16196748804_e0a7ac391c_b.jpg


16611788387_7675b0a4bd_b.jpg


Vẫn còn muốn ở lại đây lâu hơn, để được đi dạo và ngắm những sắc xanh biến ảo của mặt nước Manasarovar. Nhưng thời gian không còn, mặc dù trong kế hoạch ban đầu chúng tôi còn dự định sẽ đi thăm tu viện Seralung ở phía bờ đông của hồ để được chiêm bái ngọn Thần Sơn in bóng trong gương nước hồ thiêng, nhưng giờ đây vẫn còn cả chặng đường dài về Dzongba.

Manasarovar, giây phút tạm biệt.

16611724737_c7ae2227fa_b.jpg


16699476703_9389982b9e_b.jpg


16196744924_6c9cef8cd1_b.jpg


16196740794_6b042273cf_b.jpg
 

Hỏi Phượt

Forum statistics

Threads
56,637
Bài viết
1,154,224
Members
190,154
Latest member
tranquochuy86
Back
Top