Chân cột. Thời Minh Mệnh, phong tục người Việt được các văn bản chính thức của vua gọi là Hán tục, Hán nhân, Hán phong, Hán phục... để phân biệt với đám di, man, rợ xung quanh và phân biệt với đám Minh nhân (người Tàu phù nhà Minh) và Thanh nhân (người Tàu thờ nhà Thanh)! (theo Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng - Choi Byung Wook, NXB Thế Giới 2011)
Trong lịch sử chưa có vùng đất nào lạ kỳ như Đồng bằng sông Cửu Long, hay gọi là Miền Tây. Ở đây, địa chủ cần tá điền hơn là tá điền cần địa chủ. Có thể hiểu hơn qua một số truyện ngắn của Sơn Nam: nếu địa chủ không biết điều, người làm mướn bỏ đi nơi khác thoải mái hơn. Theo họ, có ruộng là phiền, là vất vả, cực khổ, thay vì thế là đi làm mướn sướng hơn. Vì thế địa chủ tích tụ ruộng nhiều vô kể. Sau 2 tháng ở Nam Bộ, Trương Đăng Quế ngán ngẩm kết luận: "Chẳng còn bất cứ mảnh đất cắm dùi nào cho người nghèo vì người giàu đã chiếm toàn bộ". Tất nhiên, còn do việc ẩn lậu ruộng, ruộng của người này nhờ người khác đứng tên để trốn thuế. Cảnh trốn thuế, trốn đinh, trống lính, trốn nghĩa vụ là phổ biến. Năm 1836, tỷ lệ công điền được đăng ký ở Nam Bộ chỉ chiếm 3,58%, so với ở Bình Định khoảng 10%!
Năm 1836, vua Minh Mệnh cho tiến hành đạc điền - tức một công cuộc cải cách ruộng đất. Mục tiêu ban đầu của nó là: phân chia lại ruộng đất cho công bằng, vì công điền sẽ được vua chia cho người nghèo để "ai cũng có đất lao động". Nhưng ngay từ đầu, trong các quan thực hiện đã có ý kiến khác, theo họ một số trí thức thì muốn nhưng nhiều người dân thì không muốn. Cuối cùng, mặc dù nhiều quan lại phản đối, bản thân Minh Mệnh đã chuyển sang ủng hộ tư hữu và tích tụ ruộng đất, nhằm tăng số công điền rút ra từ ruộng tư ấy, và ngài phản đứng ra kiềm chế bớt nhiệt tình của các quan! Đối với ngài, "lẽ tự nhiên, người giàu cấp ruộng, người nghèo cấp công". Nếu không, vua sợ rằng ruộng ở Nam Bộ sẽ bị bỏ hoang, không được cày cấy vì người muốn tổ chức khai thác (người giàu) thì không có ruộng, còn người nghèo thì lẩn trốn. Từ đó, riêng tỉnh Gia Định, có 6.000-7.000 mẫu công điền được lập từ 600-700 địa chủ.
(cần nói thêm là khi người Pháp vào Nam Bộ, họ gọi Sài Gòn theo tên gọi của người Khmer là Tai Gon-rừng cây gòn, trong khi Hán nhân lại gọi là Gia Định. Tên gọi Sài Gòn hoàn toàn không được người iệt sử dụng trước đó).