kiem_sau
Tàn Kiếm
Lần này, tôi ngồi gần một cặp vợ chồng và một đứa con nhỏ. Tôi đoán họ là người Pháp vì trên tay họ cầm một quyển sách hướng dẫn Du lịch Việt Nam bằng tiếng Pháp. Lúc này, mặt trời đã lên cao và tôi bắt đầu cảm thấy hơi mệt sau hơn một đêm trên xe. Tôi định ngủ vùi cho đến điểm dừng cuối cùng. Đang mơ màng thì chợt đứa nhỏ kia reo lên thích thú, theo hướng chỉ tay của đứa nhỏ, tôi nhìn thấy một chiếc xe dùng để đưa quan tài ra nghĩa địa. Cứ tạm gọi nó là xe tang nhưng kiểu cổ, có hoa văn đủ thứ, màu mè khá bắt mắt. Đôi vợ chồng Pháp kia cũng nhìn rồi ra vẻ thích thú và kiểu nai vàng ngơ ngác không hiểu cái xe kia dùng để làm gì. Tôi hồi đấy đang tán tỉnh một em học tiếng Pháp, mật thư của em gửi cho tôi toàn bằng tiếng Pháp nên phải dùng phần mềm các kiểu để dịch, lâu dần cũng biết đôi ba chữ bập bõm. Tôi liền cố giải thích cho họ công dụng của cái xe đấy và cũng giới thiệu qua loa về một tang lễ truyền thống ở Việt Nam. Trong bài nói phét đó, tôi đã dùng một lúc cả Anh, Pháp, Việt lẫn lộn. Bài giới thiệu khá thành công vì xem ra đôi vợ chồng kia mắt vẫn tròn xoe. Sợ bị hỏi thêm mà chả biết bốc phét như thế nào, tôi nhắm nghiền mắt giả vờ ngủ.
Tôi thức giấc ở biển Lăng Cô.
Tôi có nghe nói khá nhiều về bãi biển này nhưng khá là thất vọng. Cũng có thể chiếc xe dừng không đúng chỗ. Thức ăn khá chán và nhất là khi tôi buồn tình đi bộ ra biển chơi thì nhận thấy biển ở đây rất bẩn, cả bờ cát lẫn nước. Bãi biển hôm đấy, chỉ có tôi và một cặp tình nhân dạo bước. Nhìn họ thấy hạnh phúc, nhìn mình cảm thấy lẻ loi, cô độc. Cũng may, đứng trước biển, con người ta bao giờ cũng cảm thấy nhỏ bé. Một điều mà tôi rất khâm phục là ở đây, nhân dân nói tiếng Tây như tiếng Việt, nói tiếng Việt như tiếng Tây. Một cậu bé da đen tóc vàng nhí nha nhí nhố đổi tiền cho khách, một chị hàng rong đang cò cưa bán cho khác những xâu ốc biển sặc sỡ, lão chủ quán béo ị đang giới thiệu mấy đặc sản, Tất cả đều chỉ dùng một thứ tiếng, đó không phải là tiếng Việt. Ai bảo rằng dân Việt kém ngoại ngữ mà đến đây ắt hẳn phải thay đổi ý kiến ngay.
Không lâu sau đó, chúng tôi lại lên đường.
Chiếc xe lúc này đi từ từ để du khác thưởng lãm vẻ đẹp hai bên đường.
Nhìn xa xa, phía bên trái, biển rộng lớn với màu xanh dịu mát. Còn bên phải chúng tôi là những rặng núi sừng sừng và xanh ngắt.
Chiếc xe chậm chạp bò dần theo đường núi. Tôi đã nghe nhiều về đèo Hải Vân một trong những con đèo đẹp và nguy hiểm nhất Việt Nam. Tôi nhìn xuống, biển vẫn xanh và dịu êm, thỉnh thoảng những con sóng đùa nhau, nhảy lên và va vào vách đá tạo nên bọt trắng xóa và những tiếng kêu rì rào. Tiếng kêu của sóng như muôn ngàn tiếng sóng vỗ vào bờ đá khác, nhưng nghe kĩ, tôi cảm tưởng đó là tiếng kêu ai oán của hàng ngàn hàng vạn oan hồn đã bị vùi xác ở nơi đây. Bên kia, núi vẫn xanh thẳm. Những ngọn núi đứng sừng sừng như thách thức nắng mưa hàng ngàn năm qua. Gió vẫn xuyên qua những hàng thông vi vu kể chuyện cổ tích, kể về những nơi gió đến, gió đi. Là gió vi vu kể chuyện hay lời thì thầm của quỷ, tôi nhiều khi cũng không phân biệt được.
Tiếng sóng, tiếng gió vẫ tiếp tục như hàng trăm năm qua chúng đã từng. Tôi mê mẩn với nét hùng vĩ của cảnh đẹp nơi đây.
Qua một khúc quanh, Tôi nhìn thấy phía dưới chân núi là những ngôi nhà bé tẹo trong một ngôi làng bé tẹo. Chúng nhìn như những món đồ chơi đáng yêu chứ không phải như những hộp diêm vứt lộn xộn nếu như bạn ở tầng cao nhất của một ngôi nhà nào đó ở Hà Nội rồi nhìn ra xung quanh. Trước ngôi làng đó, những thửa ruộng bé tẹo với những mảng màu xanh vàng chen lẫn trông thật tuyệt.
Tôi thức giấc ở biển Lăng Cô.
Tôi có nghe nói khá nhiều về bãi biển này nhưng khá là thất vọng. Cũng có thể chiếc xe dừng không đúng chỗ. Thức ăn khá chán và nhất là khi tôi buồn tình đi bộ ra biển chơi thì nhận thấy biển ở đây rất bẩn, cả bờ cát lẫn nước. Bãi biển hôm đấy, chỉ có tôi và một cặp tình nhân dạo bước. Nhìn họ thấy hạnh phúc, nhìn mình cảm thấy lẻ loi, cô độc. Cũng may, đứng trước biển, con người ta bao giờ cũng cảm thấy nhỏ bé. Một điều mà tôi rất khâm phục là ở đây, nhân dân nói tiếng Tây như tiếng Việt, nói tiếng Việt như tiếng Tây. Một cậu bé da đen tóc vàng nhí nha nhí nhố đổi tiền cho khách, một chị hàng rong đang cò cưa bán cho khác những xâu ốc biển sặc sỡ, lão chủ quán béo ị đang giới thiệu mấy đặc sản, Tất cả đều chỉ dùng một thứ tiếng, đó không phải là tiếng Việt. Ai bảo rằng dân Việt kém ngoại ngữ mà đến đây ắt hẳn phải thay đổi ý kiến ngay.
Không lâu sau đó, chúng tôi lại lên đường.
Chiếc xe lúc này đi từ từ để du khác thưởng lãm vẻ đẹp hai bên đường.
Nhìn xa xa, phía bên trái, biển rộng lớn với màu xanh dịu mát. Còn bên phải chúng tôi là những rặng núi sừng sừng và xanh ngắt.
Chiếc xe chậm chạp bò dần theo đường núi. Tôi đã nghe nhiều về đèo Hải Vân một trong những con đèo đẹp và nguy hiểm nhất Việt Nam. Tôi nhìn xuống, biển vẫn xanh và dịu êm, thỉnh thoảng những con sóng đùa nhau, nhảy lên và va vào vách đá tạo nên bọt trắng xóa và những tiếng kêu rì rào. Tiếng kêu của sóng như muôn ngàn tiếng sóng vỗ vào bờ đá khác, nhưng nghe kĩ, tôi cảm tưởng đó là tiếng kêu ai oán của hàng ngàn hàng vạn oan hồn đã bị vùi xác ở nơi đây. Bên kia, núi vẫn xanh thẳm. Những ngọn núi đứng sừng sừng như thách thức nắng mưa hàng ngàn năm qua. Gió vẫn xuyên qua những hàng thông vi vu kể chuyện cổ tích, kể về những nơi gió đến, gió đi. Là gió vi vu kể chuyện hay lời thì thầm của quỷ, tôi nhiều khi cũng không phân biệt được.
Tiếng sóng, tiếng gió vẫ tiếp tục như hàng trăm năm qua chúng đã từng. Tôi mê mẩn với nét hùng vĩ của cảnh đẹp nơi đây.
Qua một khúc quanh, Tôi nhìn thấy phía dưới chân núi là những ngôi nhà bé tẹo trong một ngôi làng bé tẹo. Chúng nhìn như những món đồ chơi đáng yêu chứ không phải như những hộp diêm vứt lộn xộn nếu như bạn ở tầng cao nhất của một ngôi nhà nào đó ở Hà Nội rồi nhìn ra xung quanh. Trước ngôi làng đó, những thửa ruộng bé tẹo với những mảng màu xanh vàng chen lẫn trông thật tuyệt.