Theo đường dẫn các bác cho, em định tìm bản tiếng Anh để xem, nhưng chỉ gặp bản tiếng Nga. Trong trường hợp này tác giả là người Nga, bản gốc là tiếng Nga, thôi thì xem cũng được.
Theo cái bản tiếng Nga này, bác GPS đã lựa chọn, lược dịch sát ý và khéo, lại rất Việt. Trên cơ sở này, em chỉ bổ sung thêm một ít chi tiết cho khỏi phí và đề phòng biết đâu bản tiếng Anh lại lược đi rồi.
Cám ơn bác GPS đã chọn bài rất thú vị và kịp thời giới thiệu. Em góp với bác thêm một ít và mong được các bác khác góp thêm.
Cám ơn bác Nhựa đã tha về một cách đàng hoàng và cẩn trọng, tuy còn để sót như em sẽ trình bày ở phần cuối.
Dưới đây là phần góp thêm vài chi tiết:
============
+ ĐTDĐ phải gửi lại ở sân bay (ngay khi bạn đến nước này). Người ta cho nó vào cái túi nhỏ rồi mang đi đâu đó, đưa cho bạn một cái giấy biên nhận. Trước khi bạn lên máy bay (rời khỏi nước này), bạn đưa giấy biên nhận để nhận lại ĐTDĐ của mình.
+ "Tôi hy vọng bạn đọc tha thứ cho tôi về những bức ảnh có chất lượng tồi tệ. Trừ những cái ảnh được chụp tại các điểm dừng chân theo kế hoạch, tất cả các ảnh này được chụp qua cửa sổ xe hơi chạy với tốc độ 100 km/h".
(Em sợ các bác bảo em bịa tốc độ này, nên chép sẵn ra nguyên câu của tác giả: из окна машины на скорости 100 км/ч
.
+ "Ngay từ lúc đặt chân đến sân bay, du khách được giao cho một hướng dẫn viên biết ngôn ngữ và một lái xe. Đi đâu cũng phải có sự tháp tùng trực tiếp của họ. Người ta còn bổ sung thêm cho hướng dẫn viên một cô sinh viên thực tập ngoại ngữ.
Cứ như thế, bốn người chúng tôi quấy đảo nhau suốt một tuần.
Không được rời khỏi khách sạn chứ đừng nói gì đến việc dạo chơi trong thành phố. Các tuyến tham quan đã được sắp đặt từ trước, mỗi ngày thăm vài điểm. Đi từ 8h sáng, thăm quan, ăn trưa khoảng 12h, thăm quan 2-3 điểm, trở về lúc 6-7 h tối, ăn tối, đi ngủ.
Tất cả những gì một người nước ngoài có thể nhìn thấy, được tính toán và bố trí rất kỹ trước đó. Nếu ăn trưa trong thành phố thì quán ăn được chọn sao cho ngồi ở đó không nhìn thấy cuộc sống nào của thành phố
"
+ Bác Gps lược dịch nhanh đoạn này: Đồ ăn khá ngon, và bạn cũng không thể phàn nàn gì luôn, là để cho thoát ý với đoạn trên. Chắc là bản tiếng Anh dịch lại từ bản tiếng Nga có tam sao đi một tý. Em xin phép bổ sung, cho giống bản gốc, không có ý trách gì cả
: Кормят сытно - не пожалуешься на голод» (Người ta cho ăn no bạn đừng có cự là bị đói nhé).
(Lời thêm của em: Hehe, họ cho ăn no là quý rùi, lấy đâu ra ngon!)
+ "Một lần tôi thử cố gắng cắt đuôi những người tháp tùng mình, quẹo vào một con đường nhỏ, rảo nhanh bước chân vào khu dân cư. Nhưng tôi không thoát nổi hai chục mét, vì tôi bị một kẻ đi xe đạp chặn lại và giải thích: Đường ở đằng kia kìa, không được đi vào đây".
+ Trong tất cả các điểm dừng chân dành cho người nước ngoài (thí dụ quán trà trên quốc lộ khi đi sang tỉnh khác) có các điểm bán hàng ngoại: nước chanh Tàu, cà phê lon ướp lạnh của Nhật, bia, thuốc lá ... Trong một cái quán như vậy trên bờ biển có thể tìm thấy dăm gói Lay's có hạn sử dụng kết thúc vào năm 2001. (Chú thích của em: bài này viết vào năm 2005).
+ Cần nhận thấy rằng hướng dẫn viên được chuẩn bị tư tưởng để trả lời các câu hỏi của du khách theo hướng tốt lên.
Nhưng các câu trả lời của hướng dẫn viên chỉ được đưa ra khi các câu hỏi trùng với những gì có trong tài liệu hướng dẫn được lưu hành nội bộ. Các câu hỏi lạ, hoặc là được lái sang đề tài khác, hoặc đơn giản là im lặng.
Một chiến thuật thường được sử dụng khi di chuyển trên đường đến các thành phố khác. Cứ mỗi khi xe gần đến một điểm dân cư, hướng dẫn viên lại đưa ra những vấn đề nào đó để làm bạn sao nhãng, không tập trung để chụp được những ảnh mà họ cho là không cần thiết.
Mọi cố gắng định chụp cái gì đó khác với những ảnh thường thấy trong tạp chí "Triều Tiên", hướng dẫn viên sẽ hỏi ngay lập tức: Ông chụp cái này để làm gì? Chụp ảnh chỗ này không được khuyến khích".
==============
Trên đây là vài chi tiết lấy thêm, bổ sung vào bản lược dịch ban đầu của bác GPS.
Em xin nói thêm: Trong phần cuối (ở bên box baloviet.com), bác GPS có đưa cái ảnh này:
với chú thích thú vị (nhưng lại không thấy bác Nhựa đem về cả ảnh lẫn chú thích): "Cạnh bức tượng có một bác người Nga mặc cái áo thun có dòng chữ đầy mỉa mai Sự điên cuồng của Liên bang Xô viết. May mà hướng dẫn viên không biết tiếng Nga. (cứ thấy CCCP là Ok ?)".
Tuy nhiên, theo bản gốc tiếng Nga ở đường dẫn bác cho, em thấy nó còn có thêm đoạn kết này nữa, thú vị không kém:
Монотонность дороги по пути в другие города я коротал тем, что обучал гида и стажерку русскому языку. Скажем, гид вообще никогда не слышала слова «бля». Во время урока я выяснил, что «хуй» по-корейски это нечто среднее между «кыш» и «брысь», употребляющееся по отношению к домашней птице. Надо выйти на крыльцо, увидеть куриц во дворе и замахать на них руками, крича «хуй! хуй!».
Em rất quan tâm đoạn này. Xin các bác cho đường dẫn đến bản tiếng Anh hoặc tiếng Pháp để tiện tra cứu (em tìm chưa thấy). Chẳng qua em rất tò mò xem họ xử lý đoạn kết thúc hay ho này như thế nào.
Để hiểu được nghĩa đen của đoạn này phải giải thích mà cũng chưa chắc hiểu hết được cái thâm hậu. Chả hạn, chữ Khui trong tiếng Nga là cái của quý của đàn ông, theo cách nói bình dân thường ngày, tùy các bác chọn là chữ
gì ấy trong tiếng Việt.
Và đoạn này, em tạm lược ý, bỏ qua một số câu, từ quá rắc rối:
Tôi cố gắng rút ngắn sự buồn tẻ của con đường khi đi đến các thành phố khác bằng cách luyện tiếng Nga cho hướng dẫn viên và cô sinh viên thực tập (
). Trong lúc luyện tập ấy tôi phát hiện ra rằng (âm tiết )Khui trong tiếng Hàn là cái gì đó (
) được sử dụng đối với chim nhà. Cần ra ô cửa, thấy gà trong sân và vẫy tay, kêu lên Khui! Khui!.
Lời của em:
Hehe, hay không! Lựa chọn câu chuyện chả ăn nhập gì để kết thúc bằng cách cho văng miểng Khui, Khui tới tấp vô mặt (của độc giả hay của câu chuyện, hay của cái gì đó
).
Mà cái chữ Khui này, lần đầu tiên em thấy được viết rõ ràng trong một bài nghiêm túc, lạnh lùng và ý tứ nữa.
Thế mới là khéo như cái kéo!